Toàn Văn Tông Huấn ‘Dilexi Te’ Của Đức Thánh Cha Lêô XIV Về Tình Yêu Dành Cho Người Nghèo - Bản dịch của Lm Anton Trần Xuân Sang, SVD

TÔNG HUẤN ‘DILEXI TE’ CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV
VỀ TÌNH YÊU DÀNH CHO NGƯỜI NGHÈO
Nguyên bản tiếng Tây Ban Nha: EXHORTACIÓN APOSTÓLICA ‘DILEXI TE’ DEL SANTO PADRE LEÓN XIV SOBRE EL AMOR HACIA LOS POBRES
Tác giả: Đức Thánh Cha Lêô XIV
Người chuyển ngữ: Lm. Antôn Trần Xuân Sang, SVD.
Lời Tựa
Đức Thánh Cha Lêô XIV đã mở đầu triều đại giáo hoàng của mình bằng Tông huấn Dilexi te, một văn kiện khởi đi từ di cảo mục vụ cuối cùng của Đức Thánh Cha Phanxicô, quy tụ suy tư thần học và định hướng mục vụ chung quanh mầu nhiệm tình yêu của Đức Kitô dành cho người nghèo. Ngài quả quyết: «Tôi xác tín rằng chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo sẽ mang lại một cuộc canh tân phi thường cho cả Giáo Hội lẫn xã hội, khi chúng ta biết giải thoát mình khỏi lối sống tự quy chiếu và biết lắng nghe tiếng kêu than của họ».
Trong mạch văn của thông điệp Dilexit nos, Tông huấn khai mở này của Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi chúng ta học nhìn thế giới từ các vùng ngoại biên, nơi những thân phận bị quên lãng, và nhận ra trên dung mạo từng người khuôn mặt của thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương. Với ngôn ngữ gần gũi mà thấm đẫm chiều sâu thiêng liêng, Đức Thánh Cha đề nghị một hành trình hy vọng: một Giáo Hội không khép kín nơi chính mình, nhưng biết lên đường để gặp gỡ và đồng hành; biết để cho chính mình được hoán cải bởi Tình Yêu hằng cúi xuống chăm sóc những ai yếu thế nhất.
Quả thế, «một Giáo Hội không đặt giới hạn cho tình yêu, không xem ai là kẻ thù phải chống lại, nhưng chỉ có những con người — nam và nữ — để yêu thương, chính là Giáo Hội mà thế giới hôm nay đang cần».
Kính mong quý vị quảng bá và chia sẻ thông tin này đến những ai quan tâm, hầu cùng nhau cộng tác vào sứ mạng xây dựng một nền văn minh tình yêu trong ánh sáng Tin Mừng.
TÔNG HUẤN DILEXI TE
CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV
VỀ TÌNH YÊU DÀNH CHO NGƯỜI NGHÈO
- “Ta đã yêu thương con” (Kh 3,9) - Chúa nói với một cộng đoàn Kitô hữu vốn không có địa vị hay của cải, lại phải chịu bạo lực và khinh miệt: “Dù ngươi yếu đuối... Ta sẽ khiến chúng đến phủ phục trước mặt ngươi” (Kh 3,8-9). Lời này gợi nhớ đến bài ca của Đức Maria: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53).
- Lời tuyên bố tình yêu trong sách Khải Huyền hướng chúng ta đến mầu nhiệm bất diệt mà Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đào sâu trong thông điệp Dilexit Nos (Ngài đã yêu thương chúng ta) - về tình yêu thần linh và nhân loại phát xuất từ Trái Tim Chúa Kitô. Trong thông điệp ấy, chúng ta chiêm ngưỡng cách thức Chúa Giêsu tự đồng hóa với “những người bé mọn nhất trong xã hội”, và qua tình yêu hiến dâng đến tận cùng, Người tỏ bày phẩm giá của mỗi con người, đặc biệt khi họ “yếu đuối, nghèo khổ và đau thương”.[1] Chiêm ngắm tình yêu của Đức Kitô “giúp chúng ta biết lưu tâm hơn đến đau khổ và thiếu thốn của tha nhân, đồng thời củng cố chúng ta để cộng tác vào công trình giải thoát của Người, trở nên khí cụ loan truyền tình yêu ấy”.[2]
- Chính vì thế, trong sự tiếp nối với thông điệp Dilexit Nos, Đức Thánh Cha Phanxicô - trong những tháng cuối đời -đã chuẩn bị một Tông huấn về việc Giáo hội chăm sóc người nghèo và sống hiệp thông với người nghèo, mang tựa đề Dilexi Te (“Ta đã yêu thương con”), với hình ảnh Đức Kitô nói cùng mỗi người nghèo rằng: “Con không có quyền lực hay sức mạnh, nhưng Ta đã yêu thương con” (Kh 3,9). Khi nhận lại di sản thiêng liêng ấy, tôi vui mừng đón nhận, thêm vào đó vài suy tư của riêng mình, và trân trọng công bố văn kiện này vào đầu triều đại Giáo hoàng của tôi. Tôi cùng chia sẻ ước nguyện của vị tiền nhiệm khả kính: mong sao mọi Kitô hữu cảm nhận được mối dây liên kết sâu xa giữa tình yêu của Đức Kitô và lời mời gọi đến gần người nghèo. Thật vậy, tôi cũng xác tín rằng cần phải nhấn mạnh lại con đường nên thánh này, bởi “chính trong lời mời gọi nhận ra Người nơi người nghèo và đau khổ, trái tim Đức Kitô được tỏ bày- với những tâm tư và chọn lựa sâu thẳm nhất -mà mọi vị thánh đều nỗ lực noi theo.”[3]
CHƯƠNG I
NHỮNG LỜI THIẾT YẾU CHO HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN
4. Các môn đệ của Đức Giêsu đã trách móc người phụ nữ đổ dầu thơm quý giá trên đầu Người: “Sao lại hoang phí như thế? Dầu ấy có thể bán được giá cao để giúp người nghèo.” Nhưng Chúa nói với họ: “Người nghèo thì lúc nào anh em cũng có bên cạnh, còn Thầy, anh em sẽ không có mãi đâu” (Mt 26,8-9.11). Người phụ nữ ấy đã hiểu rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia khiêm nhu và đau khổ, là Đấng đáng được đổ tình yêu của bà lên mình Người. Dầu thơm ấy là một niềm an ủi cho Đầu Thánh của Chúa - đầu ấy ít ngày sau sẽ bị đội mão gai. Cử chỉ ấy tuy nhỏ bé, nhưng ai từng đau khổ mới hiểu được giá trị của một hành động yêu thương nhỏ, và sức an ủi mà nó mang lại. Đức Giêsu đã hiểu và xác nhận giá trị vĩnh cửu của nó: “Ở đâu Tin Mừng này được loan báo, người ta cũng sẽ kể lại việc người này đã làm mà nhớ đến chị ấy” (Mt 26,13). Sự đơn sơ của hành động này tỏ bày một điều cao cả: không một cử chỉ yêu thương nào -dù nhỏ nhất -bị lãng quên, nhất là khi được trao cho những ai đang đau khổ, cô đơn hay thiếu thốn, như chính Chúa trong giờ phút đó.
5. Chính trong viễn tượng này mà tình yêu dành cho Chúa được gắn kết với tình yêu dành cho người nghèo. Đức Giêsu, Đấng nói: “Người nghèo thì anh em luôn có bên cạnh” (Mt 26,11), cũng chính là Đấng hứa với các môn đệ: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Đồng thời, chúng ta nhớ đến lời Chúa: “Mỗi lần các ngươi làm điều ấy cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Chúng ta không chỉ ở trong bình diện bác ái, mà là trong viễn tượng mạc khải: gặp gỡ người nghèo, người không có quyền lực hay danh vọng, chính là một cách nền tảng để gặp gỡ Chúa của lịch sử. Trong người nghèo, Chúa vẫn tiếp tục có điều muốn nói với chúng ta.
Thánh Phanxicô
6. Đức Giáo hoàng Phanxicô, khi kể lại việc chọn tông hiệu của mình, đã chia sẻ rằng: sau khi được bầu chọn, một Hồng y bạn đã ôm ngài, hôn ngài và nói: “Xin đừng quên người nghèo.”[4] Đó chính là lời khuyên mà các vị hữu trách trong Giáo Hội đã dành cho thánh Phaolô khi ngài lên Giêrusalem để củng cố sứ vụ của mình (x. Gl 2,1-10). Sau này, thánh Tông đồ đã có thể nói rằng: đó chính là điều ngài luôn cố gắng thực hiện (x. Gl 2,10). Và đó cũng là lựa chọn của thánh Phanxicô Assisi: trong người phong hủi, ngài đã gặp chính Đức Kitô, Đấng đã ôm lấy ngài và biến đổi cuộc đời ngài. Hình ảnh rạng ngời của “người nghèo nhỏ bé” ấy (Il Poverello) sẽ mãi mãi là nguồn cảm hứng cho chúng ta.
7. Chính ngài, tám thế kỷ trước, đã khơi dậy một cuộc canh tân Tin Mừng giữa các Kitô hữu và trong xã hội thời bấy giờ. Chàng thanh niên Phanxicô, vốn giàu có và kiêu hãnh, đã bị lay động khi đối diện với thực tại của những người bị loại trừ. Tác động mà ngài khởi xướng vẫn không ngừng đánh thức tâm hồn của các tín hữu và cả nhiều người không tin - và “đã thay đổi dòng lịch sử.”[5] Công đồng Vaticanô II, theo lời của thánh Giáo hoàng Phaolô VI, cũng đi trong đường hướng ấy: “Câu chuyện xưa của người Samaritanô nhân hậu đã trở thành khuôn mẫu cho linh đạo của Công đồng.”[6] Tôi xác tín rằng lựa chọn ưu tiên cho người nghèo có khả năng tạo nên một cuộc canh tân phi thường cho cả Giáo Hội và xã hội, khi chúng ta biết thoát ra khỏi sự khép kín và biết lắng nghe tiếng kêu của họ.
Tiếng kêu cứu của người nghèo
8. Về điểm này, có một bản văn Thánh Kinh mà ta luôn phải trở về: đó là mạc khải của Thiên Chúa với ông Môsê bên bụi gai cháy: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta ở Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì những kẻ áp bức, Ta biết rõ những nỗi đau khổ của chúng. Vì thế, Ta xuống để giải thoát chúng... Giờ đây, ngươi hãy đi, Ta sai ngươi” (Xh 3,7–8.10).[7] Thiên Chúa luôn chăm lo cho người nghèo: “Họ kêu cầu Đức Chúa, và Người đã cho xuất hiện một vị cứu tinh” (Tl 3,15). Do đó, khi lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, chúng ta được mời gọi đồng cảm với con tim của Thiên Chúa- Đấng luôn thao thức trước nhu cầu của con cái mình, nhất là những ai thiếu thốn nhất. Trái lại, nếu chúng ta dửng dưng trước tiếng kêu đó, người nghèo sẽ kêu cầu lên Chúa chống lại chúng ta, và chúng ta sẽ mắc tội (x. Đnl 15,9), xa rời chính trái tim của Thiên Chúa.
9. Thực trạng của người nghèo là một tiếng kêu không ngừng vang lên trong lịch sử nhân loại, chất vấn đời sống, xã hội, các hệ thống chính trị và kinh tế, và đặc biệt là chính Giáo Hội. Trên khuôn mặt đau thương của người nghèo, ta thấy khắc ghi nỗi thống khổ của những người vô tội - cũng chính là nỗi thống khổ của Đức Kitô. Đồng thời, cần nói đúng hơn về “nhiều khuôn mặt” của người nghèo và của tình trạng nghèo, vì đây là một thực tại đa dạng: có sự nghèo túng vật chất, sự nghèo vì bị gạt ra bên lề xã hội, sự nghèo tinh thần và luân lý, sự nghèo văn hóa, sự nghèo của những người yếu đuối, mất quyền, không có chỗ đứng hay tự do.
10. Từ đó, có thể nói rằng dù những nỗ lực xóa đói giảm nghèo và cải thiện cơ cấu xã hội đã gia tăng trong các thập niên gần đây, chúng vẫn còn chưa đủ. Chúng ta đang sống trong một xã hội thường ưu tiên cho các tiêu chí của lợi ích và thành công, tạo nên nhiều bất bình đẳng; vì thế, bên cạnh những hình thức nghèo truyền thống mà chúng ta đã nhận thức, lại xuất hiện những hình thức nghèo mới, tinh vi và nguy hiểm hơn. Từ góc độ này, thật đáng quý khi Liên Hiệp Quốc đã đặt việc xóa nghèo làm một trong những Mục tiêu Thiên niên kỷ.
11. Tuy nhiên, cùng với việc dấn thân cụ thể vì người nghèo, cần có một sự thay đổi não trạng, dẫn đến chuyển biến văn hóa. Ảo tưởng về hạnh phúc dựa trên đời sống sung túc khiến nhiều người theo đuổi của cải và địa vị bằng mọi giá, thậm chí chà đạp lên người khác và lợi dụng các hệ thống bất công vốn là ưu thế cho kẻ mạnh. Trong thế giới nơi số người nghèo ngày càng đông, nghịch lý thay, ta lại chứng kiến sự gia tăng của các tầng lớp thượng lưu giàu có, sống trong “những chiếc bong bóng xa hoa,” tách biệt khỏi đời sống thực tế của đa số. Điều này cho thấy vẫn còn tồn tại, dù được che đậy, một “nền văn hóa loại trừ,” thờ ơ trước cảnh hàng triệu người chết đói hoặc sống trong điều kiện phi nhân phẩm.
Cách đây vài năm, bức ảnh một đứa trẻ chết trên bãi biển Địa Trung Hải đã gây chấn động, nhưng ngoài cảm xúc nhất thời, những biến cố tương tự ngày nay dường như chẳng còn được quan tâm, chỉ còn là “tin bên lề.”
12. Chúng ta không được phép hạ thấp cảnh giác trước nghèo đói. Điều làm ta lo ngại nhất là tình trạng nghiêm trọng của biết bao người thiếu lương thực và nước uống. Mỗi ngày có hàng ngàn người chết vì suy dinh dưỡng. Ở các quốc gia giàu có, con số người nghèo cũng đáng báo động: tại châu Âu, ngày càng nhiều gia đình không thể trang trải cuộc sống. Nghèo đói ngày nay không còn là một tình trạng đơn nhất, mà là tập hợp nhiều hình thức nghèo vật chất và xã hội khác nhau, phản ánh sự gia tăng bất bình đẳng ngay cả trong những xã hội khá giả. “Phụ nữ, khi phải chịu loại trừ, bạo hành và áp bức, lại trở nên ‘nghèo gấp đôi,’ bởi họ thường ít cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, chính nơi họ, ta vẫn thấy sáng lên những cử chỉ anh hùng hằng ngày trong việc bảo vệ và chăm sóc những người thân yếu đuối.”[8] Dù tại một số quốc gia đã có những thay đổi tích cực, “cấu trúc xã hội toàn cầu vẫn còn xa mới thể hiện rõ ràng rằng phụ nữ có phẩm giá và quyền bình đẳng như nam giới. Người ta tuyên bố điều đó bằng lời, nhưng hành động và thực tế lại nói điều ngược lại”,[9] đặc biệt là khi nói đến những phụ nữ nghèo nhất.
Định kiến ý thức hệ
13. Bên cạnh các dữ kiện - đôi khi bị “diễn giải” nhằm thuyết phục rằng tình cảnh người nghèo không nghiêm trọng-, thực tế vẫn hiển nhiên: “Có những quy tắc kinh tế hiệu quả cho tăng trưởng, nhưng không cho phát triển con người toàn diện. Sự giàu có tăng lên, nhưng bất bình đẳng cũng tăng, và như thế ‘những hình thức nghèo mới’ xuất hiện. Khi người ta nói rằng thế giới hiện đại đã giảm nghèo, họ dùng những tiêu chí không tương thích với thực tế hôm nay: chẳng hạn, trước đây không có điện không bị xem là nghèo. Nghèo đói phải luôn được hiểu trong bối cảnh của khả năng thực tế trong từng giai đoạn lịch sử.”[10] Tuy nhiên, trong một văn kiện của Cộng đồng châu Âu năm 1984 đã xác định rằng: “Người nghèo là những cá nhân, gia đình hay nhóm người mà nguồn lực (vật chất, văn hóa và xã hội) thiếu thốn đến mức không thể đạt được điều kiện sống tối thiểu chấp nhận được trong quốc gia nơi họ cư trú.”[11] Nếu chúng ta công nhận rằng mọi con người đều có phẩm giá bình đẳng, bất kể nơi sinh ra, thì chúng ta không thể làm ngơ trước những khác biệt to lớn giữa các quốc gia và vùng miền.
14. Người nghèo không tồn tại một cách ngẫu nhiên hay do định mệnh mù quáng; càng không phải vì họ tự chọn nghèo. Tuy vậy, vẫn có những người dám khẳng định điều đó - một sự mù quáng và tàn nhẫn. Dĩ nhiên, trong số người nghèo, cũng có kẻ lười biếng, nhưng đa số- cả nam lẫn nữ -vẫn miệt mài làm việc từ sáng đến tối, nhặt ve chai hay làm những công việc thấp kém, chỉ để sống sót chứ không thể cải thiện đời mình. Không thể nói rằng họ nghèo vì “thiếu công trạng,” theo một quan niệm sai lầm về “chủ nghĩa công trạng,” vốn cho rằng chỉ ai thành công mới xứng đáng.
15. Nhiều Kitô hữu cũng dễ bị lây nhiễm những thái độ và lập trường mang tính ý thức hệ trần tục, chính trị hoặc kinh tế, dẫn đến những tổng quát hóa bất công và kết luận sai lạc. Việc thực thi bác ái bị khinh thường hoặc chế giễu, như thể đó chỉ là “nỗi ám ảnh của một số người,” chứ không phải là trọng tâm nóng bỏng của sứ mạng Giáo Hội, khiến tôi nghĩ rằng chúng ta luôn cần trở lại với Tin Mừng, để khỏi rơi vào cám dỗ thay thế Tin Mừng bằng não trạng thế tục. Không thể quên người nghèo mà vẫn muốn ở lại trong dòng chảy sống động của Giáo Hội, dòng suối phát xuất từ Tin Mừng và làm phong phú mọi thời đại lịch sử.
CHƯƠNG II
THIÊN CHÚA CHỌN ĐỨNG VỀ PHÍA NGƯỜI NGHÈO
Lựa chọn dành ưu tiên cho người nghèo
16. Thiên Chúa là Tình Yêu xót thương, và dự phóng tình yêu của Người trải dài và nên trọn trong lịch sử, trước hết là cuộc hạ cố và ngự đến giữa chúng ta để giải thoát khỏi ách nô lệ, sợ hãi, tội lỗi và quyền lực sự chết. Với ánh nhìn cảm thông và con tim chan chứa yêu thương, Người hướng đến thụ tạo của mình, mang lấy thân phận nhân loại và, do đó, mang lấy cả cảnh nghèo của con người. Chính để sẻ chia những giới hạn và mong manh của bản tính chúng ta, Người đã tự mình trở nên nghèo: sinh làm người như chúng ta, sinh ra trong sự bé nhỏ của một hài nhi đặt nằm máng cỏ và trong sự hạ mình tột cùng trên thập giá; ở đó, Người chia sẻ cảnh nghèo tận căn của chúng ta là cái chết. Thế nên, có thể hiểu được tại sao thần học cũng nói đến “lựa chọn ưu tiên” của Thiên Chúa dành cho người nghèo, một cách diễn đạt xuất hiện trong bối cảnh châu Mỹ Latinh, đặc biệt tại Hội nghị Puebla, và đã được hội nhập sâu xa vào huấn quyền Giáo Hội về sau.[12] “Ưu tiên” này không bao hàm chủ trương loại trừ hay kỳ thị, điều vốn bất khả nơi Thiên Chúa, nhưng nhấn mạnh hành động của Thiên Chúa luôn chạnh lòng trước cảnh nghèo và yếu đuối của toàn thể nhân loại; Người muốn khai mở một Vương Quốc công bình, huynh đệ và liên đới, nên đặc biệt ưu tư cho những ai bị kỳ thị và áp bức, đồng thời đòi hỏi nơi chúng ta, Giáo Hội của Người, một chọn lựa vững chắc và tận căn nghiêng về những kẻ bé mọn nhất.
17. Trong viễn tượng ấy, chúng ta hiểu được nhiều trang Cựu Ước trình bày Thiên Chúa là bạn hữu và Đấng giải phóng người nghèo, Đấng lắng nghe tiếng kêu của họ và ra tay cứu độ (x. Tv 34,7). Thiên Chúa, nơi nương ẩn của kẻ nghèo, qua các ngôn sứ, đặc biệt là Amốt và Isaia, tố cáo mọi bất công gây thiệt hại cho người yếu thế, và kêu gọi Israel canh tân việc phụng tự từ bên trong, vì không thể vừa cầu nguyện hay dâng lễ tế vừa áp bức những kẻ nghèo hèn. Ngay từ đầu, Kinh Thánh đã mạnh mẽ tỏ bày tình yêu Thiên Chúa qua việc bảo trợ những ai yếu thế và túng thiếu đến độ chúng ta có thể nói về một “sự yếu mềm” của Thiên Chúa đối với họ. “Con tim Thiên Chúa có một chỗ ưu tiên dành cho người nghèo […]. Toàn bộ hành trình cứu chuộc của chúng ta mang dấu ấn người nghèo.”[13]
Đức Giêsu, Đấng Mêsia nghèo
18. Toàn bộ câu chuyện Cựu Ước về sự ưu ái của Thiên Chúa dành cho người nghèo và ước muốn lắng nghe tiếng kêu của họ — như đã gợi nhắc — được nên trọn nơi Đức Giêsu Nadarét.[14] Trong mầu nhiệm Nhập Thể, “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ và trở nên giống phàm nhân. Người lại còn mang hình dạng thấp hèn” (Pl 2,7), và như thế đem ơn cứu độ đến cho chúng ta. Đó là cảnh nghèo tận căn, đặt nền trên sứ mạng mặc khải dung mạo đích thực của tình yêu Thiên Chúa (x. Ga 1,18; 1 Ga 4,9). Bởi thế, thánh Phaolô có thể tóm kết: “Anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8,9).
19. Quả vậy, Tin Mừng cho thấy cảnh nghèo ấy in dấu trên mọi phương diện đời sống Người. Ngay từ lúc chào đời, Đức Giêsu đã nếm trải cảnh bị khước từ: thánh Luca kể rằng khi Giuse và Maria đến Bêlem lúc sắp sinh, “không còn chỗ cho các ngài trong quán trọ” (Lc 2,7). Người sinh ra trong cảnh khiêm hạ, được đặt nằm máng cỏ, và rất sớm sau đó, để thoát chết, cha mẹ phải bồng Người trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13–15). Khởi đầu sứ vụ công khai, Người bị dân Nadarét trục xuất sau khi công bố năm hồng ân Chúa ban cho người nghèo (x. Lc 4,14–30). Đến giờ chết, Người cũng không có nơi tiếp nhận, vì bị dẫn ra khỏi Giêrusalem để đóng đinh (x. Mc 15,22). Tất cả tóm lại cho thấy cảnh nghèo của Đức Giêsu: sự loại trừ, đặc điểm thường thấy nơi định nghĩa “người nghèo”, những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Đức Giêsu tỏ lộ privilegium pauperum “đặc ân của người nghèo”: Người không chỉ là Đấng Mêsia nghèo, mà còn là Đấng Mêsia thuộc về người nghèo và dành cho người nghèo.
20. Một vài dấu chỉ về thân phận xã hội của Đức Giêsu: trước hết, Người làm nghề thợ mộc (téktōn, x. Mc 6,3), thuộc hạng người sống bằng lao động tay chân; lại không có ruộng đất nên bị coi là kém hơn nông dân. Khi tiến dâng Hài Nhi trong Đền Thờ, Giuse và Maria dâng “một đôi chim gáy hay hai bồ câu non” (x. Lc 2,22–24), theo Lv 12,8 là lễ vật của người nghèo. Một trình thuật đáng chú ý kể: Đức Giêsu cùng các môn đệ bứt lúa ăn khi băng qua đồng (x. Mc 2,23–28) — hành vi mót lúa vốn chỉ dành cho người nghèo. Chính Người nói về mình: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,20; Lc 9,58). Người là Thầy rảo bước, cảnh nghèo và bấp bênh của Người biểu lộ mối hiệp thông với Chúa Cha, và cũng là điều Người đòi hỏi nơi ai muốn theo làm môn đệ: từ bỏ của cải, giàu sang, và mọi bảo đảm trần thế như dấu chỉ hữu hình của lòng tín thác vào Thiên Chúa và sự quan phòng của Người.
21. Khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Giêsu vào hội đường Nadarét, đọc sách ngôn sứ Isaia và áp dụng cho chính mình lời sấm: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi; Người sai tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc 4,18; x. Is 61,1). Người tự tỏ mình là Đấng làm cho tình yêu gần gũi của Thiên Chúa hiện diện “hôm nay” trong lịch sử, và điều ấy trước hết là công trình giải thoát những ai bị giam hãm bởi sự dữ, kẻ yếu đuối và người nghèo. Các dấu lạ kèm theo lời rao giảng là biểu lộ lòng xót thương của Thiên Chúa đối với bệnh nhân, người nghèo và tội nhân, những người vì thân phận mà bị xã hội, thậm chí tôn giáo, loại trừ: Người mở mắt mù, chữa phong hủi, cho kẻ chết sống lại và loan báo Tin Mừng cho người nghèo; Thiên Chúa đã đến gần, Thiên Chúa yêu thương họ (x. Lc 7,22). Vì thế, Người công bố: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Thiên Chúa ưu ái người nghèo; chính họ là đối tượng của lời hy vọng và giải phóng; do đó, dẫu trong cảnh nghèo hay yếu đuối, không ai còn phải thấy mình bị bỏ rơi. Và Giáo Hội, nếu muốn thuộc về Đức Kitô, phải là Giáo Hội của các Mối Phúc: biết nhường chỗ cho kẻ bé mọn và bước đi nghèo khó với người nghèo, một nơi mà người nghèo có địa vị ưu tiên (x. Gc 2,2–4).
22. Người bần cùng, tật bệnh, không tự lo được điều thiết yếu, thường buộc phải đi ăn xin; lại còn mang nặng nỗi hổ thẹn xã hội, do quan niệm cho rằng bệnh tật và nghèo đói gắn với tội cá nhân. Đức Giêsu mạnh mẽ bác bỏ não trạng ấy: Thiên Chúa “cho mặt trời soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương” (Mt 5,45). Hơn nữa, Người đảo ngược hoàn toàn quan niệm đó, như trong dụ ngôn ông phú hộ và anh Ladarô nghèo khó: “Con ơi, con đã nhận phần phúc của con rồi, còn Ladarô những bất hạnh; bây giờ, nó được an ủi nơi đây, còn con thì chịu khốn khổ” (Lc 16,25).
23. Rõ ràng, “từ niềm tin vào Đức Kitô đã trở nên nghèo khó và luôn gần gũi người nghèo, bị loại trừ, phát sinh mối ưu tâm lo cho sự phát triển toàn diện của những người bị bỏ rơi nhất trong xã hội.”[15] Tôi thường tự hỏi: tại sao, mặc dù Kinh Thánh nói rất minh nhiên về người nghèo, vẫn có nhiều người nghĩ rằng có thể gạt họ ra khỏi mối bận tâm của mình? Trước mắt, chúng ta hãy còn ở trong khung Kinh Thánh, tiếp tục suy tư về tương quan của chúng ta với “những người rốt hết” và vị trí then chốt của họ trong Dân Thiên Chúa.
Lòng xót thương đối với người nghèo trong Kinh Thánh
24. Thánh Gioan Tông đồ viết: “Ai không yêu người anh em mình thấy, thì không thể yêu Thiên Chúa, Đấng họ không thấy” (1 Ga 4,20). Tương tự, khi đáp lời một kinh sư, Đức Giêsu quy tụ hai giới răn xưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực” (Đnl 6,5) và “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Lv 19,18), gộp lại thành một giới răn duy nhất. Thánh Máccô ghi lại: “Giới răn thứ nhất là: Hỡi Israel, hãy nghe đây, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất; ngươi phải yêu mến Đức Chúa… Giới răn thứ hai là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có giới răn nào lớn hơn hai điều ấy” (Mc 12,29-31).
25. Đoạn Lv 19,18 nói về việc tôn trọng đồng bào; những bản văn khác còn mời gọi tôn trọng — thậm chí yêu thương — kẻ thù: “Nếu ngươi gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, hãy mau đưa trả cho nó. Nếu thấy lừa của kẻ ghét ngươi quỵ xuống dưới gánh nặng, đừng bỏ mặc nó; trái lại, hãy cùng chủ nó giúp đỡ” (Xh 23,4-5). Ở đây nổi bật giá trị tự thân của việc tôn trọng nhân vị: bất cứ ai, kể cả kẻ thù, khi lâm cảnh ngặt nghèo, đều đáng được ta trợ giúp.
26. Không thể phủ nhận: ưu quyền tuyệt đối của Thiên Chúa trong giáo huấn Đức Giêsu luôn đi kèm một điểm bất di bất dịch khác, không thể yêu mến Thiên Chúa mà không mở rộng tình yêu ấy đến người nghèo. Đức ái đối với tha nhân là bằng chứng hữu hình cho tính xác thực của tình yêu Thiên Chúa, như thánh Gioan khẳng định: “Chưa ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta và tình yêu của Người nơi chúng ta nên trọn […] Thiên Chúa là Tình Yêu; ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,12.16). Hai tình yêu khác biệt nhưng bất khả phân ly. Dù trong những trường hợp tương quan với Thiên Chúa chưa minh nhiên, chính Chúa dạy rằng mọi hành vi yêu thương tha nhân đều phản chiếu phần nào đức ái của Thiên Chúa: “Mỗi lần các ngươi làm điều ấy cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25,40).
27. Vì thế, các việc thương xót được khuyến khích như dấu chỉ tính xác thực của phụng tự: trong khi ca tụng Thiên Chúa, phụng tự còn nhằm dọn lòng cho cuộc hoán cải mà Thánh Thần thực hiện nơi chúng ta, để tất cả nên hình ảnh Đức Kitô và lòng xót thương của Người đối với kẻ yếu hèn. Theo ý hướng đó, tương quan với Chúa, được biểu lộ nơi phụng vụ, cũng muốn giải thoát chúng ta khỏi nguy cơ sống các mối tương quan theo lô-gích tính toán và vụ lợi, để mở ra sự nhưng không lưu chuyển giữa những người yêu thương và vì thế biết đặt mọi sự làm của chung. Đức Giêsu căn dặn: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù.14 Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc.” (Lc 14,12–14).
28. Lời mời gọi của Chúa thực thi lòng xót thương đối với người nghèo đạt biểu hiện viên mãn trong dụ ngôn lớn về phán xét chung (x. Mt 25,31–46), một bức họa sống động về mối phúc cho người xót thương. Ở đó, Chúa trao cho chúng ta chìa khóa để đạt tới sự viên mãn, bởi “nếu chúng ta kiếm tìm sự thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa, thì ngay trong bản văn ấy, chúng ta gặp được ‘bản hướng dẫn’ theo đó ta sẽ được xét xử.”[16] Những lời rõ ràng và mạnh mẽ của Tin Mừng cần được sống “không thêm thắt, không lý giải quanh co hay biện minh làm suy yếu sức nặng của chúng. Chúa cho thấy thật minh bạch rằng sự thánh thiện không thể hiểu cũng như sống tách rời khỏi những đòi hỏi ấy của Người.”[17]
29. Trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, chương trình bác ái không phát xuất từ phân tích hay dự án, nhưng trực tiếp từ gương Đức Giêsu, từ chính lời Tin Mừng. Thư thánh Giacôbê dành nhiều chỗ cho vấn đề tương quan giữa người giàu và kẻ nghèo, đưa ra hai lời kêu gọi mạnh mẽ chất vấn đức tin tín hữu: “Nào ích gì, thưa anh em, nếu có kẻ nói mình có đức tin, nhưng lại không có việc làm? Đức tin ấy có cứu được người ấy không? Nếu có anh chị em nào không áo che thân, không đủ cơm ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại bảo: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm, ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những gì thân xác họ cần, thì được ích gì? Đức tin cũng vậy; nếu không có việc làm, thì quả là đức tin chết” (Gc 2,14–17).
30. “Vàng bạc của anh em đã rỉ sét, và chính rỉ sét ấy sẽ làm chứng chống lại anh em; nó sẽ ăn nát thịt anh em như lửa. Anh em đã tích trữ của cải trong những ngày sau hết! Này, tiền công anh em nợ những người thợ gặt đồng, mà anh em giữ lại, đang kêu lên; tiếng kêu của thợ gặt đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Anh em đã sống xa hoa, buông theo khoái lạc ở trần gian; anh em đã nuôi cho lòng mình béo mập trong ngày bị sát hại” (Gc 5,3–5). Lời lẽ dứt khoát biết bao, dẫu chúng ta muốn làm ngơ! Trong Thư thứ nhất của thánh Gioan cũng có lời khuyến cáo tương tự: “Ai có của cải đời này mà thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, lại chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (1 Ga 3,17).
31. Những gì Lời mạc khải nói “rõ ràng, trực tiếp, đơn sơ và hùng hồn đến độ không một lối chú giải Giáo Hội nào có quyền làm nhẹ ý nghĩa ấy. Việc suy tư của Giáo Hội trên các bản văn này không được che khuất hay làm yếu đi sức khuyến dụ của chúng, nhưng đúng hơn phải giúp ta can đảm đón nhận và hâm nóng chúng. Tại sao phải làm phức tạp điều vốn đơn giản? Các khung khái niệm là để giúp chạm vào thực tại mà chúng muốn giải thích, chứ không phải để đẩy ta xa thực tại ấy.”[18]
32. Mặt khác, một gương mẫu Giáo Hội minh bạch về việc hiệp thông của cải và trợ giúp người nghèo được tìm thấy trong đời sống thường nhật của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Chúng ta nhớ riêng cách các ngài giải quyết việc phân phát hằng ngày cho các quả phụ (x. Cv 6,1–6). Đây là một vấn đề phức tạp, vì một số quả phụ từ miền khác đến đã bị lãng quên do là người ngoại kiều. Sự kiện trong sách Công vụ cho thấy có sự bất bình của nhóm Hylạp (người Do Thái gốc văn hóa Hy Lạp). Các Tông đồ không đáp lại bằng một diễn từ tín lý trừu tượng, nhưng, đặt bác ái lên vị trí trung tâm, đã tái tổ chức việc phục vụ các quả phụ: kêu gọi cộng đoàn chọn những người khôn ngoan, được quý trọng để lo việc “phục vụ bàn”, còn các ngài chuyên tâm rao giảng Lời.
33. Khi lên Giêrusalem để tham khảo các Tông đồ, hầu “xem mình có chạy và đã chạy vô ích chăng” (Gl 2,2), Phaolô được nhắc “đừng quên những người nghèo” (x. Gl 2,10). Vì lẽ đó, ngài đã tổ chức nhiều cuộc lạc quyên trợ giúp các cộng đoàn túng thiếu. Trong các động lực Phaolô nêu ra, đáng lưu ý lời này: “Thiên Chúa yêu thích người cho cách vui vẻ” (2 Cr 9,7). Với những ai không mấy sẵn sàng thực hiện các nghĩa cử nhưng không, vô vị lợi, Lời Chúa khẳng định: quảng đại với người nghèo là một thiện ích đích thực cho chính người thực hành; sống như thế, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt. Kinh Thánh cũng hứa nhiều cho người rộng rãi: “Ai thương xót kẻ nghèo là cho Đức Chúa vay; Người sẽ trả lại việc lành của nó” (Cn 19,17). “Hãy cho, thì sẽ được cho lại […] vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). “Bấy giờ, ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương của ngươi sẽ mau lành” (Is 58,8). Các Kitô hữu tiên khởi xác tín điều đó.
34. Đời sống các cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên, được tường thuật trong quy điển Kinh Thánh và đến với chúng ta như Lời mạc khải, được trao cho chúng ta như mẫu gương để noi theo và như chứng tá của một đức tin hoạt động nhờ đức ái; và chứng tá ấy vẫn là lời khích lệ thường hằng cho các thế hệ mai sau. Qua dòng thế kỷ, những trang ấy vẫn không ngừng đánh động tâm hồn tín hữu yêu mến và thi hành các việc bác ái, như những hạt giống phì nhiêu sinh hoa trái không ngơi.
CHƯƠNG III
MỘT GIÁO HỘI CHO NGƯỜI NGHÈO
35. Ba ngày sau khi được bầu chọn, vị tiền nhiệm của tôi đã bày tỏ với các đại diện truyền thông ước nguyện rằng Giáo Hội tỏ bày rõ nét hơn sự chăm lo và lưu tâm của mình đối với người nghèo: “Ôi, tôi ước ao một Giáo Hội nghèo và cho người nghèo biết bao!”[19]
36. Ước nguyện ấy phản ánh xác tín rằng Giáo Hội “nhận ra nơi người nghèo và người đau khổ hình ảnh của Đấng Sáng Lập nghèo khó và nhẫn nại của mình, cố gắng đáp ứng các nhu cầu của họ và nỗ lực phụng sự chính Đức Kitô nơi họ.”[20] Thật vậy, vì được mời gọi đồng hình đồng dạng với những người rốt hết, nên trong Giáo Hội “không được phép có nghi ngờ, cũng không chấp nhận những diễn giải làm suy yếu sứ điệp quá minh bạch này […]. Cần phải nói thẳng rằng có một mối dây bất khả phân ly giữa đức tin của chúng ta và người nghèo.”[21] Về điểm này, suốt gần hai ngàn năm lịch sử của các môn đệ Đức Giêsu, chúng ta có vô vàn chứng tá.[22]
Sự giàu có đích thực của Giáo Hội
37. Thánh Phaolô cho biết giữa các tín hữu của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai “không có nhiều người khôn ngoan theo kiểu loài người, không nhiều người quyền thế, không nhiều người quý phái” (1 Cr 1,26). Tuy nhiên, mặc cho chính mình còn nghèo, các Kitô hữu tiên khởi ý thức rất rõ nhu cầu hướng đến những ai thiếu thốn hơn. Ngay thuở ban đầu, các Tông đồ đã đặt tay trên bảy người do cộng đoàn tuyển chọn và — ở một mức độ nào đó — tháp nhập họ vào thừa tác vụ của mình, thiết lập họ cho việc phục vụ (diakonía) những người nghèo nhất (x. Cv 6,1–5). Thật ý nghĩa khi vị môn đệ đầu tiên làm chứng cho đức tin bằng chính máu mình là thánh Stêphanô, một thành viên của nhóm này. Nơi ngài, việc phục vụ người túng thiếu và chứng tá tử đạo gặp nhau.
38. Hơn hai thế kỷ sau, một phó tế khác cũng bày tỏ lòng gắn bó với Đức Kitô theo cung cách tương tự, kết hiệp trong đời mình việc phục vụ người nghèo và việc tử đạo: thánh Laurensô.[23] Theo tường thuật của thánh Ambrôsiô, Laurensô, phó tế Rôma dưới triều Đức Giáo hoàng Sixtô II, khi bị nhà chức trách buộc giao nộp “kho tàng của Giáo Hội”, “ngày hôm sau đã dẫn đến những người nghèo. Khi bị hỏi kho tàng đã hứa đâu, ngài chỉ cho họ những người nghèo và nói: ‘Đây là kho tàng của Giáo Hội.’”[24] Thuật lại biến cố ấy, Ambrôsiô hỏi: “Đức Kitô còn có kho tàng nào tốt hơn những người mà chính Người đã nói rằng Người hiện diện nơi họ?”[25] Và, nhắc rằng các thừa tác viên Giáo Hội không bao giờ được lơ là việc chăm sóc người nghèo, càng không được tích trữ của cải cho riêng mình, ngài xác quyết: “Mỗi người trong chúng ta phải chu toàn bổn phận này với đức tin chân thành và sự lo xa sáng suốt. Chắc chắn, nếu ai đó xoay xở để mưu lợi riêng, đó là tội lỗi; nhưng nếu trao cho người nghèo, nếu chuộc kẻ bị giam cầm, đó là lòng thương xót.”[26]
Các Giáo Phụ và người nghèo
39. Ngay từ những thế kỷ đầu, các Giáo Phụ đã nhận ra nơi người nghèo một con đường diễm phúc để đến với Thiên Chúa, một cách thế đặc biệt để gặp gỡ Người. Bác ái đối với người túng thiếu không chỉ được hiểu như một nhân đức luân lý, mà là biểu hiện cụ thể của đức tin vào Ngôi Lời nhập thể. Cộng đoàn tín hữu, được sức mạnh Thánh Thần nâng đỡ, bén rễ trong sự gần gũi người nghèo; nơi cộng đoàn, họ không phải là cái đuôi, nhưng là phần thiết yếu của Thân Thể sống động. Chẳng hạn, trên đường chịu tử đạo, thánh Inhaxiô Antiôkia khuyên các tín hữu Esmyrna đừng lơ là bổn phận bác ái đối với người túng thiếu, cảnh báo họ đừng noi theo những kẻ chống lại Thiên Chúa: “Hãy để ý những người có quan điểm khác về ân sủng Đức Giêsu Kitô đã đến với chúng ta: họ chống lại ý định của Thiên Chúa thế nào! Họ không bận tâm đến tình yêu, đến người góa bụa, trẻ mồ côi, người bị áp bức, kẻ tù đày hay người được phóng thích, kẻ đói khát hay khô cạn.”[27] Giám mục Pôlicapô của Esmyrna nhắn nhủ riêng các thừa tác viên: “Các linh mục cũng hãy giàu lòng trắc ẩn, xót thương mọi người. Hãy đưa kẻ lầm lạc trở về, thăm viếng mọi bệnh nhân, đừng bỏ quên người góa phụ, trẻ mồ côi và người nghèo, nhưng luôn chuyên cần làm điều thiện trước mặt Thiên Chúa và loài người.”[28] Từ hai chứng từ ấy, ta nhận ra Giáo Hội hiện rõ như người mẹ của kẻ nghèo, là nơi đón tiếp và công chính.
40. Về phần mình, thánh Giúttino, trong Bênh vực thứ nhất (Apología)gửi hoàng đế Adrianô, Thượng viện và dân chúng Rôma, giải thích rằng Kitô hữu mang đến cho người túng thiếu tất cả những gì họ có thể, vì họ nhìn thấy nơi ấy anh chị em trong Đức Kitô. Khi viết về buổi cử hành cầu nguyện ngày thứ nhất trong tuần, ngài nhấn mạnh rằng, ở trung tâm phụng vụ Kitô giáo, không thể tách thờ phượng Thiên Chúa khỏi việc chăm sóc người nghèo. Thật vậy, vào một thời điểm của cử hành, “những ai có của và tự nguyện, mỗi người tùy lòng quảng đại, sẽ dâng phần của mình; những gì quyên được được trao cho vị chủ tọa. Ngài phân phát cho trẻ mồ côi, góa phụ, những người vì bệnh tật hay lý do khác lâm cảnh túng thiếu, cho người bị giam cầm, cho khách lạ qua đường, tóm lại, ngài trở thành người chăm lo cho tất cả những ai thiếu thốn.”[29] Như thế, Giáo Hội sơ khai đã làm chứng rằng đức tin không tách rời hoạt động xã hội: đức tin không đi kèm việc làm, như thánh Giacôbê dạy, thì là đức tin chết (x. Gc 2,17).
Thánh Gioan Kim Khẩu
41. Trong số các Giáo Phụ Đông phương, có lẽ nhà giảng thuyết nồng nhiệt nhất về công lý xã hội là thánh Gioan Kim Khẩu, Tổng Giám mục Constantinopolis vào thế kỷ IV và thế kỷ V. Trong các bài giảng, ngài khuyên tín hữu nhận ra Đức Kitô nơi người túng thiếu: “Bạn muốn tôn vinh Thân Thể Đức Kitô ư? Đừng để nó bị khinh rẻ nơi các chi thể của Người, tức là nơi những người nghèo không áo mặc, cũng đừng kính trọng Người trong đền thờ bằng y phục lụa là, trong khi ở ngoài kia bạn bỏ mặc Người lạnh giá và trần trụi […]. Trong đền thờ, Thân Thể Đức Kitô không cần áo choàng, nhưng cần những tâm hồn tinh tuyền; còn nơi người nghèo, Người cần mọi chăm sóc của chúng ta. Vậy hãy học biết suy xét và tôn vinh Đức Kitô theo ý Người. Khi muốn tôn vinh ai, chúng ta phải trao cho họ sự kính trọng mà họ ưa thích, chứ không phải điều ta thích […]. Bạn cũng vậy, hãy tôn vinh Người theo lệnh truyền của chính Người, bằng cách phân phát của cải cho người nghèo. Thiên Chúa không cần bình vàng, nhưng cần tâm hồn bằng vàng.”[30] Khẳng định cách minh bạch rằng nếu tín hữu không gặp Đức Kitô nơi người nghèo trước cửa nhà mình thì cũng chẳng gặp được Người trên bàn thờ, ngài tiếp tục: “Rốt cuộc, tô điểm bàn tiệc của Đức Kitô bằng chén đĩa vàng ích gì, nếu Người lại đang chết đói nơi người nghèo? Trước hết hãy nuôi kẻ đói, rồi hãy trang hoàng bàn tiệc bằng những gì còn lại.”[31] Ngài hiểu Thánh Thể cũng là biểu hiện bí tích của đức ái và công lý, vốn đi trước, tháp tùng và phải được tiếp nối nơi tình yêu và sự chăm sóc người nghèo.
42. Như vậy, bác ái không phải ngả rẽ tùy chọn, nhưng là tiêu chuẩn của phụng tự chân chính. Gioan Kim Khẩu mạnh mẽ lên án lối xa hoa phung phí đi đôi với thái độ dửng dưng trước người nghèo. Việc chăm sóc họ không chỉ là một đòi hỏi xã hội, nhưng là điều kiện cho ơn cứu rỗi; nhờ đó, của cải bất công mang sức nặng luận phạt: “Trời giá rét, người nghèo nằm co trong rách rưới, chết dần vì lạnh, răng đánh cầm cập, với dáng vẻ và y phục đáng làm bạn động lòng. Vậy mà bạn ấm áp, no say, cứ thản nhiên bước qua. Bạn còn mong Thiên Chúa giải thoát bạn khỏi bất hạnh sao? […] Nhiều khi bạn khoác lên một xác chết vô cảm biết bao lớp áo quý và dát vàng, kẻ ấy chẳng còn cảm nhận vinh dự nào, nhưng lại khinh dể người đang đau đớn, rách nát, bị hành hạ vì đói rét; bạn xem trọng hư danh hơn lòng kính sợ Thiên Chúa.”[32] Cảm thức sâu xa về công lý xã hội khiến ngài quả quyết: “Không trao cho người nghèo là cướp đoạt của họ, là tước đoạt sự sống của họ, vì những gì chúng ta sở hữu thuộc về họ.”[33]
Thánh Âu Tinh
43. Âu Tinh có bậc thầy thiêng liêng là thánh Ambrôsiô, người nhấn mạnh đòi hỏi luân lý của việc chia sẻ: “Cái bạn trao cho người nghèo không phải của bạn, mà là của họ; bởi bạn đã chiếm đoạt thứ vốn được ban cho công ích.”[34] Với Giám mục Milano, bố thí là sự công chính được phục hồi, không phải cử chỉ ban ơn bề trên. Trong các bài giảng, lòng thương xót mang sắc thái ngôn sứ: tố cáo những cơ cấu tích lũy và tái khẳng định hiệp thông như ơn gọi của Giáo Hội.
44. Được đào luyện trong truyền thống ấy, vị Giám mục thánh thiện của Hippo lại dạy tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo. Mục tử tỉnh thức và nhà thần học mẫn tuệ hiếm có, ngài hiểu rằng hiệp thông Giáo Hội đích thực cũng được diễn tả bằng hiệp thông của cải. Trong Chú giải Thánh Vịnh, ngài nhắc rằng Kitô hữu chân chính không bỏ quên tình yêu đối với những ai túng thiếu: “Hãy chăm lo cho anh em nếu họ cần điều gì; nếu Đức Kitô ở trong anh em, hãy trao tặng, ngay cả cho người xa lạ.”[35] Sự chia sẻ ấy phát nguyên từ đức ái đối thần và có cùng đích là tình yêu Đức Kitô. Với Âu Tinh, người nghèo không chỉ là đối tượng được trợ giúp, mà là sự hiện diện mang chiều kích bí tích của Chúa.
45. Vị Tiến sĩ Ân Sủng nhận thấy nơi việc chăm sóc người nghèo một bằng chứng cụ thể về sự chân thành của đức tin. Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà không chạnh lòng thương những người thiếu thốn thì là kẻ nói dối (x. 1 Ga 4,20). Khi chú giải cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với chàng thanh niên giàu có và về “kho tàng trên trời” dành cho những ai phân phát của cải của mình cho người nghèo (x. Mt 19,21), thánh Âu Tinh đặt những lời sau đây trên môi miệng Chúa: «Ta đã nhận đất và sẽ ban trời. Ta đã nhận những sự chóng qua và sẽ ban lại những phúc lộc đời đời. Ta đã nhận bánh, Ta sẽ ban sự sống. […] Ta đã được đón tiếp trú ngụ và sẽ ban một mái nhà. Ta đã được thăm viếng khi đau bệnh và sẽ ban sức khỏe. Ta đã được thăm trong ngục tù và sẽ ban tự do. Tấm bánh đã trao cho những người nghèo của Ta thì tiêu hao; còn tấm bánh Ta ban sẽ phục hồi nghị lực và không bao giờ vơi cạn». [36] Đấng Tối Cao không để ai thắng mình về lòng quảng đại đối với những kẻ phục vụ Người nơi những anh chị em khốn khó nhất; yêu mến người nghèo càng nhiều, phần thưởng từ Thiên Chúa càng lớn.
46. Nhãn quan Chúa Kitô là trung tâm và thấm đẫm tính giáo hội này cho phép khẳng định rằng các của lễ, khi phát sinh từ đức ái, không những xoa dịu nhu cầu của anh em, mà còn thanh luyện tâm hồn người trao ban và chuẩn bị họ cho việc hoán cải, «bởi lẽ việc bố thí có thể giúp anh chuộc lại những tội lỗi của đời sống đã qua, nếu anh đổi mới đời mình». [37] Nói cách khác, đó là con đường hoán cải thông thường của người ước muốn theo Đức Kitô với một trái tim không chia sẻ.
47. Trong một Giáo Hội nhận ra nơi người nghèo dung mạo Đức Kitô và coi của cải như khí cụ của đức ái, tư tưởng của thánh Âu Tinh vẫn là ánh sáng chắc chắn. Hôm nay, trung thành với giáo huấn của ngài không chỉ là học hỏi tác phẩm, mà còn là sẵn sàng sống triệt để lời mời gọi hoán cải của ngài, tất yếu bao hàm việc phục vụ đức ái.
48. Còn nhiều Giáo Phụ khác, cả Đông phương lẫn Tây phương, cũng lên tiếng về ưu tiên chăm sóc người nghèo trong đời sống và sứ mạng của mỗi Kitô hữu. Tóm lại, có thể nói: thần học thời các Giáo Phụ mang tính thực hành, hướng tới một Giáo Hội nghèo và cho người nghèo; nhắc rằng Tin Mừng chỉ được loan báo cách xứng hợp khi chạm tới “thịt da” của những người sau hết; và cảnh báo rằng sự khắt khe tín lý không có lòng thương xót chỉ là lời rỗng tuếch.
Chăm sóc bệnh nhân
49. Lòng trắc ẩn Kitô giáo biểu lộ cách riêng trong việc chăm sóc bệnh nhân và người đau khổ. Khởi đi từ các dấu chỉ trong sứ vụ công khai của Đức Giêsu, chữa người mù, phong hủi, bại liệt, Giáo Hội hiểu việc chăm sóc bệnh nhân như một phần quan trọng trong sứ mạng của mình, vì nơi họ, Giáo Hội dễ dàng nhận ra Chúa Kitô chịu đóng đinh. Thánh Cyprianô, giữa cơn dịch hạch tại Carthage, nơi ngài làm giám mục, đã nhắc nhở các Kitô hữu tầm quan trọng của việc chăm sóc người lây nhiễm khi khẳng định: “Dịch bệnh tưởng như khủng khiếp và chết chóc này lại thử thách công chính của từng người và khảo nghiệm tinh thần nhân loại: xem người lành có phục vụ kẻ bệnh chăng, thân nhân có thật lòng yêu nhau không, chủ có xót thương tôi tớ bệnh tật không, y sĩ có bỏ rơi bệnh nhân đang kêu van không.”[38] Truyền thống Kitô giáo thăm viếng bệnh nhân, rửa vết thương, ủi an người sầu khổ không chỉ là hoạt động bác ái xã hội, nhưng là hành vi mang tính Giáo Hội, qua đó các phần tử Hội Thánh “chạm đến thân mình đau khổ của Đức Kitô.”[39]
50. Thế kỷ XVI, thánh Gioan Thiên Chúa khi lập Dòng Camillo (Dòng Bệnh Viện) đã sáng lập những bệnh viện mẫu mực, đón nhận tất cả mọi người, không phân biệt địa vị hay kinh tế. Câu nói nổi tiếng của ngài “Hỡi anh em, hãy làm điều thiện!” đã trở thành châm ngôn của bác ái tích cực nơi bệnh nhân. Cùng thời, thánh Camillô de Lellis lập Dòng Tôi Tớ Bệnh Nhân (Camillians), với sứ mạng phục vụ bệnh nhân bằng tất cả tấm lòng. Luật dòng dạy rằng: “Mỗi người hãy xin Chúa ơn được lòng trìu mến của người mẹ đối với tha nhân, để có thể phục vụ họ bằng tất cả tình yêu bác ái, cả hồn lẫn xác; vì chúng ta ước muốn — nhờ ơn Chúa — phục vụ mọi bệnh nhân với cùng tình cảm mà một người mẹ yêu thương săn sóc đứa con duy nhất đang đau ốm.”[40] Tại bệnh viện, chiến địa, nhà tù và ngoài đường phố, các tu sĩ Camillô đã hiện thân lòng thương xót của Đức Kitô, Vị Thầy thuốc.
51. Khi chăm sóc bệnh nhân bằng lòng trìu mến mẫu tử, như người mẹ chăm con, vô số nữ tu đã đảm nhận vai trò còn rộng khắp hơn trong việc chăm sóc y tế cho người nghèo: Nữ Tử Bác Ái của thánh Vinh Sơn Phaolô, các Nữ Tu Bệnh Viện, các Tiểu Nữ Tử Quan Phòng Thiên Chúa và nhiều hội dòng nữ khác trở nên sự hiện diện hiền mẫu và âm thầm trong bệnh viện, nhà dưỡng lão, mái ấm người già. Các chị mang đến thuốc men, lắng nghe, hiện diện, và nhất là sự dịu dàng. Các chị xây dựng, nhiều khi bằng đôi tay của chính mình, các cơ sở y tế nơi vùng thiếu thốn; dạy cách giự gìn vệ sinh, đỡ đẻ, dùng thuốc men với khôn ngoan tự nhiên và đức tin sâu thẳm. Nhà của các chị trở thành ốc đảo phẩm giá nơi không ai bị loại trừ. “Cái chạm” của lòng trắc ẩn là liều thuốc đầu tiên. Thánh nữ Louise de Marillac viết cho các chị Nữ Tử Bác Ái, nhắc họ rằng các chị “đã lãnh nhận một phúc lành đặc biệt của Thiên Chúa để phục vụ người nghèo đau yếu trong bệnh viện.”[41]
52. Hôm nay, di sản ấy tiếp tục nơi các bệnh viện Công giáo, trạm xá vùng ven, các đoàn y tế truyền giáo nơi rừng sâu, các trung tâm đón tiếp người nghiện và “bệnh viện dã chiến” ở vùng chiến sự. Sự hiện diện Kitô giáo bên cạnh bệnh nhân cho thấy ơn cứu độ không phải ý niệm trừu tượng, nhưng là một hành động cụ thể. Trong cử chỉ lau rửa một vết thương, Giáo Hội công bố rằng Nước Thiên Chúa khởi sự giữa những người dễ tổn thương nhất; và khi làm thế, Giáo Hội trung tín với Đấng đã nói: “Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom” (Mt 25,35.36). Khi Giáo Hội quỳ xuống bên người phong, đứa trẻ suy dinh dưỡng hay một người hấp hối vô danh, Giáo Hội thực hiện ơn gọi sâu xa nhất của mình: yêu mến Chúa nơi mà Người bị tổn thương nhất.
Việc chăm sóc người nghèo trong đời sống đan tu
53. Đời sống đan tu, sinh ra trong thinh lặng của các sa mạc, ngay từ đầu đã là chứng tá hiệp thông. Các tu sĩ bỏ lại tất cả — của cải, danh vọng, gia đình — không chỉ vì contemptus mundi (khinh suất những lợi lộc trần gian), nhưng để gặp Đức Kitô nghèo khó trong sự từ bỏ triệt để. Thánh Basilio Cả, trong Luật Dòng, không thấy có mâu thuẫn giữa đời sống cầu nguyện, chiêm niệm và hoạt động cho người nghèo. Với ngài, lòng hiếu khách và việc chăm sóc người túng thiếu là phần cấu thành linh đạo đan tu; ngay cả khi đã bỏ mọi sự để embrace cảnh nghèo, các đan sĩ vẫn phải trợ giúp người nghèo hơn nhờ chính lao động của mình, vì “để có thể cứu giúp người túng thiếu, hiển nhiên chúng ta phải chuyên cần làm việc […]. Nếp sống này hữu ích không chỉ để chế ngự thân xác, mà còn vì đức ái đối với tha nhân, hầu nhờ chúng ta mà Thiên Chúa cung cấp đủ cho các anh em yếu đuối hơn.”[42]
54. Tại Caesarea, nơi làm giám mục, ngài xây dựng một quần thể được biết đến là Basilíades, bao gồm nhà trọ, bệnh viện và trường học cho người nghèo và bệnh nhân. Vì thế, đan sĩ không chỉ là ẩn sĩ, mà còn là người phục vụ. Basilio chứng minh rằng muốn gần Thiên Chúa thì phải gần người nghèo. Tình yêu cụ thể là tiêu chuẩn của sự thánh thiện. Cầu nguyện và chăm sóc, chiêm niệm và chữa lành, trước tác và đón tiếp: tất cả là biểu hiện của cùng một tình yêu đối với Đức Kitô.
55. Ở Tây phương, thánh Biển Đức Nursia soạn Luật Dòng trở thành xương sống của linh đạo đan tu châu Âu. Trong đó, việc đón tiếp người nghèo và lữ khách giữ vị trí danh dự: “Hãy đặc biệt quan tâm việc đón tiếp người nghèo và khách hành hương, vì nhất là nơi họ, Đức Kitô được đón nhận.”[43] Không chỉ là lời nói: suốt nhiều thế kỷ, các đan viện Biển Đức là nơi nương náu cho góa phụ, trẻ bị bỏ rơi, lữ hành và hành khất. Với thánh Biển Đức, đời sống cộng đoàn là “trường học của đức ái”. Lao động chân tay không chỉ có chức năng thực dụng, mà còn đào luyện con tim để phục vụ. Sự chia sẻ giữa các đan sĩ, chăm sóc bệnh nhân và lắng nghe người yếu thế chuẩn bị tâm hồn đón Đức Kitô, Đấng đến nơi dung mạo người nghèo và khách lạ. Lòng hiếu khách đan tu Biển Đức đến nay vẫn là dấu chỉ một Giáo Hội mở cửa, đón nhận vô điều kiện, chữa lành không đòi đáp trả.
56. Theo thời gian, các đan viện Biển Đức trở thành những nơi đối kháng “văn hóa loại trừ”. Các đan sĩ canh tác đất đai, sản xuất lương thực, bào chế dược liệu và đơn sơ trao tặng cho người túng thiếu. Lao động thầm lặng của họ như men dậy một nền văn minh mới, nơi người nghèo không bị coi là “vấn đề” phải giải quyết, nhưng là anh chị em cần được đón nhận. Quy tắc chia sẻ, lao động chung và trợ giúp người yếu thế đã cấu trúc một nền kinh tế huynh đệ, đối nghịch với logic tích lũy. Chứng tá của các đan sĩ cho thấy: sự nghèo khó tự nguyện, xa lạ với cảnh bần hàn, lại là con đường tự do và hiệp thông. Họ không chỉ giúp người nghèo; họ trở nên gần gũi, thành anh em trong cùng một Chúa. Trong cốc phòng và hành lang, một linh đạo hiện diện của Thiên Chúa nơi kẻ bé mọn được hình thành.
57. Bên cạnh trợ giúp vật chất, các đan viện còn đóng vai trò nền tảng trong đào tạo văn hóa và thiêng liêng cho người khiêm hạ. Trong thời dịch bệnh, chiến tranh hay đói kém, đan viện là nơi người túng thiếu tìm được bánh ăn và thuốc men, nhưng cũng tìm lại phẩm giá và tiếng nói. Ở đó, trẻ mồ côi được giáo dục, thợ học việc được đào tạo, nông dân được hướng dẫn kỹ thuật canh tác và học chữ. Tri thức được chia sẻ như tặng ân và trách nhiệm. Đan viện phụ vừa là thầy vừa là cha; trường học đan tu là nơi giải phóng nhờ chân lý. Vì, như thánh Gioan Cassian viết, đan sĩ phải nổi bật bởi “sự khiêm nhường của trái tim […], không dẫn đến thứ ‘tri thức làm kiêu căng’, nhưng dẫn tới ánh sáng nhờ sự viên mãn của đức ái.”[44] Bằng việc hình thành lương tâm và truyền thụ khôn ngoan, các đan sĩ góp phần xây dựng một sư phạm Kitô giáo mang tính hội nhập và bao dung. Văn hóa, được đức tin thấm nhuần, được chia sẻ với sự đơn sơ; tri thức, khi được chiếu soi bởi đức ái, trở thành phục vụ. Như thế, đời sống đan tu tỏ lộ vừa là nẻo đường thánh thiện, vừa là một hình thức cụ thể biến đổi xã hội.
58. Truyền thống đan tu dạy rằng: cầu nguyện và bác ái, thinh lặng và phục vụ, cốc phòng và bệnh thất, tất cả dệt nên một cùng bức vải thiêng liêng. Đan viện là nơi lắng nghe và hành động, thờ phượng và chia sẻ. Thánh Biển Đức Clairvaux, nhà canh tân lớn của dòng Xitô, “kiên quyết kêu gọi đời sống tiết độ và giản dị, cả trong bữa ăn, y phục lẫn kiến trúc đan viện, đồng thời khuyến khích việc nâng đỡ và chăm lo người nghèo.”[45] Với ngài, lòng trắc ẩn không phải tùy chọn phụ thuộc, mà là con đường vương giả theo sát Đức Kitô. Do đó, đời sống đan tu, trung thành với ơn gọi ban đầu, cho thấy: Giáo Hội chỉ thực sự là Hiền Thê của Chúa khi cũng trở nên người chị của người nghèo. Đan viện không chỉ là nơi ẩn trú khỏi trần gian, mà là “trường học” để phục vụ thế giới tốt hơn. Ở đâu đan sĩ mở cửa cho người nghèo, ở đó Giáo Hội khiêm tốn nhưng mạnh mẽ tỏ bày rằng chiêm niệm không loại trừ lòng thương xót, trái lại còn đòi hỏi nó như hoa trái tinh tuyền nhất.
Giải phóng người bị giam cầm
59. Từ thời các Tông đồ, Giáo Hội đã xem việc giải phóng người bị áp bức như một dấu chỉ của Nước Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu, khi khởi đầu sứ vụ công khai, đã công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi; Người sai tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha” (Lc 4,18). Các Kitô hữu tiên khởi, dù sống trong cảnh bấp bênh, vẫn cầu nguyện và trợ giúp anh chị em bị giam tù, như sách Công vụ (x. 12,5; 24,23) và nhiều văn bản Giáo Phụ làm chứng. Sứ mạng giải phóng này tiếp nối qua các thế kỷ bằng những hành động cụ thể, nhất là khi thảm kịch nô lệ và tù binh in dấu trên cả những xã hội.
60. Cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII, khi nhiều Kitô hữu bị bắt ở Địa Trung Hải hay bị nô dịch trong chiến tranh, hai Dòng tu đã ra đời: Dòng Chí Thánh Ba Ngôi Chuộc Kẻ Làm Tôi (Trinitari), do thánh Gioan de Matha và thánh Félix de Valois sáng lập; và Dòng Đức Mẹ Chuộc Kẻ Làm Tôi (Mercedari), do thánh Phêrô Nolasco sáng lập với sự nâng đỡ của thánh Raimunđô de Peñafort, một tu sĩ thuộc dòng Đa Minh. Các cộng đoàn thánh hiến này mang một đoàn sủng đặc thù: giải phóng các Kitô hữu bị nô lệ, dâng hiến của cải[46] và nhiều khi cả mạng sống để chuộc người. Dòng Trinitari với châm ngôn Gloria Tibi Trinitas et captivis libertas (Vinh quang cho Ba Ngôi, và tự do cho kẻ bị giam cầm), và dòng Mercedari, thêm lời khấn thứ tư[47] bên cạnh ba lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, đã chứng thực rằng đức ái có thể anh hùng. Việc giải phóng kẻ bị giam cầm là biểu lộ tình yêu Ba Ngôi: Thiên Chúa giải phóng không chỉ khỏi nô lệ tinh thần mà còn khỏi áp bức cụ thể. Hành vi giải thoát khỏi cảnh nô lệ và ngục tù được xem như kéo dài hy tế cứu độ của Đức Kitô, Đấng đã lấy máu mình làm giá chuộc chúng ta (x. 1 Cr 6,20).
61. Linh đạo nguyên thủy của các Dòng tu này bám rễ sâu trong chiêm niệm thập giá. Đức Kitô là Đấng Cứu Chuộc các tù nhân cách tuyệt hảo, và Giáo Hội, Thân Thể Người, tiếp nối mầu nhiệm ấy trong thời gian.[48] Các tu sĩ không xem việc giải phóng tù chỉ là hành động chính trị hay kinh tế, nhưng như một cử chỉ gần như phụng vụ, một lễ dâng mang tính bí tích của chính bản thân. Nhiều người đã trao chính thân mình thay cho tù nhân, thể hiện trọn vẹn lệnh truyền: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13). Truyền thống ấy không bị đứt đoạn, trái lại thúc đẩy những hình thức hành động mới trước các “kiếp nô lệ” hiện đại: nạn buôn người, lao động cưỡng bức, bóc lột tình dục, các dạng nghiện ngập khác nhau.[49] Khi nhập thể, đức ái trở nên giải phóng; và khi trung tín với Chúa mình, sứ mạng của Giáo Hội luôn là công bố tự do. Ngay hôm nay, khi vẫn còn “hàng triệu người — trẻ em, đàn ông, phụ nữ mọi lứa tuổi — bị tước đoạt tự do và buộc phải sống trong những điều kiện gần như nô lệ,”[50] di sản ấy được các Dòng tu này và nhiều Hội Dòng, Tổ Chức khác tiếp nối nơi vùng ven đô, khu xung đột và các hành lang di cư. Khi Giáo Hội quỳ xuống để bẻ gãy những dây xích mới đang giam cầm người nghèo, Giáo Hội trở thành dấu chỉ của Phục Sinh.
62. Không thể kết thúc suy tư về những người bị tước tự do mà không nhắc đến các tù nhân đang ở các trại giam tạm giam hay thụ án. Ở điểm này, đáng nhớ lời Đức Phanxicô nói với một nhóm tù nhân: “Đối với tôi, bước vào nhà tù luôn là một giây phút quan trọng, vì nhà tù là nơi có ‘nhiều tính người’ […]. Một tính người được thử luyện, đôi khi mệt mỏi vì khó khăn, mặc cảm tội lỗi, phán xét, hiểu lầm, đau khổ, nhưng đồng thời chất chứa nghị lực, ước muốn được tha thứ, ước muốn được giải cứu.”[51] Ước muốn ấy, cùng với những ước muốn khác, cũng đã được các Dòng “chuộc kẻ làm tôi” đón nhận như một phục vụ ưu tiên của Giáo Hội. Như thánh Phaolô công bố: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải phóng chúng ta” (Gl 5,1). Và tự do ấy không chỉ nội tâm: nó tỏ hiện trong lịch sử như tình yêu biết chăm sóc và giải thoát khỏi mọi trói buộc.
Chứng nhân của đức khó nghèo Tin Mừng
63. Thế kỷ XIII, trước bối cảnh đô thị hóa ngày càng mạnh, của cải tập trung và những dạng nghèo mới xuất hiện, Chúa Thánh Thần đã khơi dậy trong Giáo Hội một hình thức thánh hiến mới: các Dòng Khất Thực. Khác với mô hình đan tu cố định, các tu sĩ khất thực chọn lối sống lữ hành, không sở hữu của cải cá nhân hay cộng đoàn, hoàn toàn phó thác cho Quan Phòng. Họ không chỉ phục vụ người nghèo, mà còn trở nên nghèo với họ. Họ coi thành thị như “sa mạc” mới, và những người bị gạt ra bên lề như những bậc thầy thiêng liêng mới. Các Dòng như Phanxicô, Đa Minh, Augustinô và Camêlô tạo nên một “cuộc cách mạng Tin Mừng”, trong đó nếp sống đơn sơ, khó nghèo trở thành dấu chỉ ngôn sứ cho sứ vụ, tái hiện kinh nghiệm của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi (x. Cv 4,32). Chứng tá của các tu sĩ khất thực đặt vấn nạn cho cả sự xa hoa giáo sĩ lẫn sự lạnh lùng của xã hội đô thị.
64. Thánh Phanxicô Assisi trở thành biểu tượng của mùa xuân thiêng liêng này. Ngài “đính hôn” với Đức Khó Nghèo, khát khao bắt chước Đức Kitô nghèo khó, trần trụi và chịu đóng đinh. Trong Luật Dòng, ngài yêu cầu anh em “đừng chiếm hữu điều gì, dù là nhà cửa, nơi chốn hay bất cứ vật gì. Và như những lữ khách, khách lạ giữa đời này, phục vụ Chúa trong nghèo khó và khiêm nhường, hãy mạnh dạn đi xin của bố thí, và đừng hổ thẹn, vì chính Chúa đã trở nên nghèo vì chúng ta nơi trần gian này.”[52] Đời ngài là một cuộc lột bỏ liên lỉ: từ cung điện đến người phong, từ hùng biện đến thinh lặng, từ sở hữu đến hiến tặng trọn vẹn. Phanxicô không lập một cơ quan xã hội, nhưng khai sinh một tình huynh đệ Tin Mừng. Nơi người nghèo, ngài thấy anh em và hình ảnh sống động của Chúa. Sứ mạng của ngài là “ở với họ”, bằng một sự liên đới vượt khoảng cách, bằng một tình yêu cảm thông. Đức khó nghèo của ngài mang tính tương quan: đưa ngài đến gần, trở nên như họ, thậm chí làm “kẻ nhỏ hơn”. Sự thánh thiện của ngài phát sinh từ xác tín rằng chỉ thật sự đón nhận Đức Kitô khi quảng đại hiến thân cho anh em.
65. Thánh Clara Assisi, được linh hứng bởi thánh Phanxicô, lập Dòng Phúc Âm Nữ (Dòng Nghèo Khó), sau này gọi là Dòng Clara. Cuộc chiến thiêng liêng của ngài là trung tín với lý tưởng nghèo khó triệt để. Ngài từ chối các đặc ân tòa thánh vốn có thể bảo đảm an ninh vật chất cho đan viện, và kiên quyết xin Đức Giáo hoàng Grêgôriô IX ban Privilegium Paupertatis, đặc ân được sống không sở hữu bất cứ tài sản vật chất nào.[53] Chọn lựa ấy diễn tả trọn niềm tín thác vào Thiên Chúa và ý thức rằng sự nghèo khó tự nguyện là một hình thức tự do và ngôn sứ. Thánh Clara dạy các chị em: Đức Kitô là gia nghiệp duy nhất; không gì được che khuất sự hiệp thông với Người. Đời chiêm niệm âm thầm của ngài là tiếng kêu chống lại tinh thần thế tục và là sự bênh vực thinh lặng cho người nghèo và người bị lãng quên.
66. Thánh Đa Minh Guzmán, cùng thời với thánh Phanxicô, lập Dòng Giảng Thuyết với đoàn sủng khác, nhưng cùng mức triệt để. Ngài mong rao giảng Tin Mừng bằng uy tín phát xuất từ nếp sống khó nghèo, xác tín rằng Chân Lý cần những chứng nhân nhất quán. Gương nghèo khó đi kèm Lời được rao giảng. Nhờ thoát khỏi gánh nặng vật chất, các tu sĩ Đa Minh có thể chuyên tâm cho điều chính yếu là giảng thuyết. Họ đến các thành phố, đặc biệt nơi đại học, để dạy chân lý của Thiên Chúa.[54] Sống nhờ sự đỡ nâng của người khác, họ cho thấy đức tin không ép buộc, nhưng được trao tặng; và khi ở giữa người nghèo, họ học “chân lý Tin Mừng từ bên dưới”, như những môn đệ của Đức Kitô khiêm hạ.
67. Như thế, các Dòng Khất Thực là câu trả lời sống động trước sự loại trừ và dửng dưng. Họ không đề xuất cải cách xã hội một cách minh nhiên, nhưng kêu gọi hoán cải cá nhân và cộng đoàn theo lô-gích Nước Trời. Nơi họ, nghèo khó không do thiếu của, nhưng là chọn lựa tự do: trở nên nhỏ bé để đón nhận kẻ nhỏ bé. Như Thánh Tôma Celano nói về Phanxicô: “Nơi ngài, ta thấy người yêu thương người nghèo trước hết, […] cởi áo mình để mặc cho người nghèo; nếu chưa giống họ trong thực tế, thì cũng đã nên giống bằng cả tấm lòng.”[55] Các tu sĩ khất thực trở nên dấu chỉ của một Giáo Hội lữ hành, khiêm nhu và huynh đệ, sống giữa người nghèo không vì chiến lược chiêu dụ, nhưng bởi căn tính. Họ dạy rằng Giáo Hội chỉ bừng sáng khi biết lột bỏ mọi sự, và sự thánh thiện đi qua một con tim khiêm tốn và nghiêng về kẻ bé mọn.
Giáo Hội và việc giáo dục người nghèo
68. Khi ngỏ lời với một số nhà giáo dục, Đức Phanxicô nhắc rằng giáo dục luôn là một trong những diễn đạt cao quý nhất của đức ái Kitô giáo: “Sứ mạng của anh chị em đầy chướng ngại nhưng cũng đầy niềm vui. […] Một sứ mạng của tình yêu, vì không thể dạy nếu không yêu.”[56] Ngay từ buổi đầu, Kitô hữu đã nhận ra: tri thức giải phóng, làm cho con người thêm phẩm giá và đến gần chân lý. Đối với Giáo Hội, dạy dỗ người nghèo là hành vi công chính và là hành vi đức tin. Noi gương Thầy Chí Thánh, Đấng dạy dân chúng những chân lý thần linh và nhân loại, Giáo Hội đảm nhận sứ mạng đào luyện thiếu nhi và người trẻ, nhất là những người nghèo, trong chân lý và tình yêu. Sứ mạng này được thể chế hóa qua việc khai sinh các Hội Dòng tận hiến cho giáo dục đại chúng.
69. Vào thế kỷ XVI, thánh Giuse Calasanz, xúc động trước tình trạng thiếu học vấn và thiếu đào luyện của thanh thiếu niên nghèo tại thành Rôma, đã mở tại một số phòng kề bên nhà thờ Thánh Đôrôthêa ở khu Trastevere ngôi trường công lập phổ thông miễn phí đầu tiên tại châu Âu. Từ hạt giống ấy — dẫu không ít gian nan — nảy sinh và phát triển Dòng Giáo sĩ Học viện Nghèo của Mẹ Thiên Chúa, thường gọi là các tu sĩ Piô (Escolapios), với mục đích truyền thụ cho giới trẻ “tri thức trần thế cũng như sự khôn ngoan của Tin Mừng, dạy họ khám phá trong các biến cố đời mình và trong dòng lịch sử hoạt động yêu thương của Thiên Chúa Tạo Hóa và Cứu Chuộc.”[57] Có thể xem vị linh mục can đảm này là “vị khai sáng đích thực của trường học Công giáo hiện đại, nhắm đào tạo con người toàn diện và mở rộng cho mọi người.”[58] Với cùng tâm thức, thế kỷ XVII, Thánh Gioan Baotixita La Salle, nhận ra bất công do việc con em công nhân và nông dân bị loại khỏi hệ thống giáo dục Pháp thời đó, đã lập Dòng Anh Em Các Trường Kitô Giáo, với lý tưởng cung cấp giáo dục miễn phí, đào luyện vững chắc và bầu khí huynh đệ. La Salle xem lớp học như nơi phát triển con người, đồng thời là nơi hoán cải. Trường của ngài kết hợp cầu nguyện, phương pháp, kỷ luật và chia sẻ. Mỗi học sinh là quà tặng độc nhất của Thiên Chúa; và việc dạy học là phục vụ Nước Thiên Chúa.
70. Đến thế kỷ XIX, cũng tại Pháp, Thánh Marcellin Champagnat lập Hội Dòng Anh Em Marist của các Trường Học, “nhạy bén trước các nhu cầu thiêng liêng và giáo dục của thời đại, đặc biệt là tình trạng mù chữ tôn giáo và bị bỏ rơi nơi giới trẻ,”[59] dấn thân trọn vẹn, trong bối cảnh giáo dục vẫn là đặc quyền của thiểu số, cho sứ mạng giáo dục và loan báo Tin Mừng cho thiếu nhi và người trẻ, nhất là các em thiếu thốn. Cùng tinh thần ấy, tại Torino, Thánh Gioan Bosco khởi sự công trình Salêdiêng, đặt trên ba nguyên tắc của “hệ thống dự phòng”- lý trí, tôn giáo và lòng yêu mến- [60] còn Chân phước Antonio Rosmini lập Dòng Bác Ái, trong đó “bác ái trí thức” — cùng với “bác ái vật chất” và, cao hơn cả, “bác ái thiêng liêng-mục vụ” — được trình bày như chiều kích không thể thiếu của mọi hoạt động bác ái nhắm mưu ích và thăng tiến toàn diện con người.[61]
71. Nhiều Hội Dòng nữ cũng là những tác nhân chủ chốt của cuộc canh tân sư phạm này. Các nữ tu Ursuline, Dòng Nữ Tử Đức Mẹ Maria (Compañía de María Nuestra Señora), các Nữ Sư Phạm (Maestras Pías) và nhiều hội dòng khác, đặc biệt được khai sinh trong các thế kỷ XVIII và XIX, đã hiện diện tại những nơi Nhà nước vắng bóng. Các ngài lập trường học ở các thôn xóm nhỏ, vùng ngoại vi và khu lao động. Việc giáo dục các thiếu nữ, cách riêng, trở thành ưu tiên hàng đầu. Các nữ tu dạy chữ, loan báo Tin Mừng, hướng dẫn những vấn đề thực hành của đời sống hằng ngày, nâng cao đời sống tinh thần qua việc trau dồi nghệ thuật và, trên hết, đào luyện lương tâm. Phương pháp sư phạm của các ngài đơn sơ: gần gũi, kiên nhẫn, dịu hiền. Các ngài dạy bằng chính đời sống trước khi bằng lời nói. Trong thời buổi nạn mù chữ lan tràn và tình trạng bị loại trừ mang tính cơ cấu, những người nữ thánh hiến ấy là những ngọn hải đăng hy vọng. Sứ mạng của các ngài là đào luyện con tim, dạy biết suy tư, thăng tiến phẩm giá. Kết hợp đời sống đạo đức với lòng tận tụy phục vụ tha nhân, các ngài đã chống lại sự bỏ rơi bằng sự dịu dàng của người giáo dục nhân danh Đức Kitô.
72. Đối với đức tin Kitô giáo, giáo dục người nghèo không phải là ban ơn, nhưng là bổn phận. Trẻ em có quyền được hiểu biết, như một đòi hỏi căn bản để nhìn nhận phẩm giá con người. Dạy dỗ các em là khẳng định giá trị của các em, là trao cho các em công cụ để biến đổi thực tại. Truyền thống Kitô giáo hiểu tri thức vừa là ân ban của Thiên Chúa vừa là trách nhiệm cộng đồng. Giáo dục Kitô giáo không chỉ tạo nên những người chuyên môn, mà là những con người rộng mở với thiện hảo, cái đẹp và chân lý. Bởi thế, trường Công giáo, khi trung tín với danh xưng, trở thành không gian bao gồm, đào tạo toàn diện và thăng tiến con người. Nhờ kết hợp đức tin với văn hóa, trường gieo mầm tương lai, tôn vinh hình ảnh Thiên Chúa và xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.
Đồng hành với người di dân
73. Kinh nghiệm di cư đi cùng lịch sử Dân Thiên Chúa: Ápraham ra đi mà không biết mình sẽ đến đâu; Môsê dẫn một dân lữ hành băng qua sa mạc; Đức Maria và Thánh Giuse bồng Hài Nhi trốn sang Ai Cập. Chính Đức Kitô, Đấng “đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng đón nhận” (Ga 1,11), đã sống giữa chúng ta như một người khách lạ. Vì thế, Giáo Hội luôn nhận ra nơi người di dân sự hiện diện sống động của Chúa, Đấng trong ngày phán xét sẽ nói với những kẻ bên hữu: “Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước” (Mt 25,35).
74. Thế kỷ XIX, khi hàng triệu người Âu châu di cư kiếm sống, hai vị thánh lớn nổi bật trong mục vụ di dân: Thánh Gioan Baotixita Scalabrini và Thánh Nữ Phanxicô Xaviê Cabrini. Scalabrini, Giám mục Piacenza, sáng lập Dòng truyền giáo Thánh Carlos (Scalabrini) để đồng hành với người di dân tại nơi đến, cung cấp trợ giúp thiêng liêng, pháp lý và vật chất. Ngài xem người di dân là đối tượng của cuộc tân Phúc Âm hóa, cảnh báo nguy cơ bị bóc lột và đánh mất đức tin nơi đất khách. Trung thành với đoàn sủng lãnh nhận, “Scalabrini nhìn vượt xa, nhìn về tương lai, hướng tới một thế giới và một Giáo Hội không ranh giới, không người xa lạ.”[62] Thánh Nữ Francisca Cabrini, sinh tại Ý và nhập tịch Hoa Kỳ, trở thành công dân Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh. Để chu toàn sứ mạng phục vụ di dân, ngài nhiều lần vượt Đại Tây Dương, và “với lòng can đảm lạ thường, khởi đi từ con số không để xây dựng trường học, bệnh viện, cô nhi viện cho vô số người cùng khổ liều mình tìm việc nơi Tân Thế Giới, không biết ngôn ngữ, không phương tiện hội nhập xứng hợp trong xã hội Hoa Kỳ, nơi họ thường là nạn nhân của những kẻ vô lương. Trái tim hiền mẫu không bao giờ buông xuôi của ngài tìm đến họ ở mọi nơi: khu ổ chuột, nhà tù, hầm mỏ.”[63] Năm Thánh 1950, Đức Piô XII tuyên ngài là bổn mạng các người di dân.[64]
75. Truyền thống hoạt động của Giáo Hội với và cho người di dân vẫn tiếp diễn; hôm nay, sứ vụ ấy thể hiện qua các trung tâm đón tiếp người tị nạn, các sứ vụ nơi biên giới, và các nỗ lực của Caritas Quốc tế cùng nhiều tổ chức khác. Huấn quyền đương đại khẳng định rõ cam kết này. Đức Phanxicô nhắc nhở rằng sứ mạng của Giáo Hội bên cạnh người di dân và tị nạn còn rộng hơn, với bốn động từ: “đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập”. Nhưng các động từ này “không chỉ áp dụng cho di dân và tị nạn”, mà còn “diễn tả sứ mạng của Giáo Hội đối với mọi người ở các vùng ngoại vi hiện sinh: phải được đón tiếp, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập.”[65] Ngài nói thêm: “Mỗi con người là con Thiên Chúa. Nơi họ in đậm hình ảnh Đức Kitô. Vì thế, chúng ta phải là những người đầu tiên nhận ra điều ấy, để giúp người khác thấy nơi người di dân và tị nạn không chỉ là ‘vấn đề’ cần giải quyết, nhưng là anh chị em cần được đón nhận, tôn trọng và yêu thương, một cơ hội mà Đấng Quan Phòng ban cho chúng ta để góp phần xây dựng một xã hội công bằng hơn, một nền dân chủ viên mãn hơn, một đất nước liên đới hơn, một thế giới huynh đệ hơn và một cộng đoàn Kitô hữu rộng mở hơn, theo Tin Mừng.”[66] Giáo Hội, như người mẹ, cùng bước với những ai đang lên đường. Nơi thế gian thấy đe dọa, Giáo Hội thấy con cái; nơi người ta dựng tường, Giáo Hội bắc nhịp cầu. Giáo Hội biết: lời loan báo Tin Mừng chỉ đáng tin khi được dịch thành những cử chỉ gần gũi và đón tiếp; và nơi mỗi người di dân bị khước từ, chính Đức Kitô đang gõ cửa cộng đoàn.
Ở bên những người rốt hết
76. Sự thánh thiện Kitô giáo thường nở hoa ở những nơi bị lãng quên và bị tổn thương nhất của nhân loại. Những “người nghèo trong số những người nghèo”, không chỉ thiếu của cải, mà còn thiếu tiếng nói và sự nhìn nhận phẩm giá — chiếm vị trí đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa. Họ là những người được ưu ái của Tin Mừng, là những kẻ thừa hưởng Nước Trời (x. Lc 6,20). Nơi họ, Đức Kitô tiếp tục chịu khổ và phục sinh; nơi họ, Giáo Hội tái khám phá lời mời gọi tỏ lộ căn tính sâu xa nhất của mình.
77. Thánh Têrêsa Calcutta, được tuyên phong hiển thánh năm 2016, đã trở thành biểu tượng phổ quát của đức ái được sống đến tận cùng cho những người cùng khổ nhất, bị xã hội loại bỏ. Đấng sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái đã dâng trọn đời mình cho những người hấp hối bị bỏ rơi trên các nẻo đường Ấn Độ: đón nhận người bị ruồng rẫy, rửa sạch vết thương, đồng hành đến phút cuối với một sự dịu dàng chính là lời cầu nguyện. Tình yêu dành cho “những người nghèo nhất trong số người nghèo” khiến Mẹ không chỉ chăm lo nhu cầu vật chất, mà còn loan báo Tin Mừng: “Chúng tôi muốn công bố Tin Mừng cho người nghèo rằng Thiên Chúa yêu họ, chúng tôi yêu họ, họ là người quan trọng đối với chúng tôi; họ cũng được tạo dựng bởi cùng một bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, để yêu và được yêu. Người nghèo của chúng ta là những con người vĩ đại, rất đáng mến; họ không cần sự thương hại hay cảm thông của chúng ta, họ cần tình yêu thấu hiểu. Họ cần sự tôn trọng, cần được đối xử với phẩm giá.”[67] Tất cả khởi đi từ một đời sống thiêng sâu xa, xem phục vụ người nghèo là hoa trái của cầu nguyện và tình yêu, nguồn mạch của bình an đích thực, như Thánh Gioan Phaolô II nhắc các khách hành hương trong lễ phong Chân phước cho Mẹ: “Mẹ Têrêsa đã tìm đâu ra sức mạnh để hoàn toàn hiến thân cho tha nhân? Mẹ tìm được trong cầu nguyện và chiêm niệm thinh lặng dung nhan Đức Giêsu Kitô, Thánh Nhan và Thánh Tâm của Người. Chính Mẹ nói: ‘Hoa trái của thinh lặng là cầu nguyện; hoa trái của cầu nguyện là đức tin; hoa trái của đức tin là tình yêu; hoa trái của tình yêu là phục vụ; và hoa trái của phục vụ là bình an.’ […] Lời cầu nguyện làm đầy trái tim Mẹ bằng bình an của Đức Kitô và cho phép Mẹ lan tỏa bình an ấy.”[68] Mẹ không xem mình là nhà từ thiện hay nhà hoạt động, nhưng là Hiền thê của Đức Kitô chịu đóng đinh, Đấng Mẹ phục vụ với trót lòng yêu mến nơi những người đau khổ.
78. Tại Brazil, Thánh Nữ Dulce của Người Nghèo, được biết đến như “thiên thần hiền lành của Bahía”, đã nhập thể cùng một tinh thần Tin Mừng với những nét rất Brazil. Nói về ngài và hai nữ tu khác được phong thánh trong cùng một buổi lễ, Đức Phanxicô nhắc đến tình yêu của các ngài dành cho những người bị gạt ra bên lề và khẳng định: “các vị tân hiển thánh cho chúng ta thấy đời sống thánh hiến là con đường của tình yêu nơi các ngoại vi hiện sinh của thế giới.”[69] Chị Dulce đối diện sự thiếu thốn bằng sáng tạo, trở ngại bằng dịu hiền, khan hiếm bằng đức tin kiên vững. Bắt đầu từ việc đón bệnh nhân trong một chuồng gà, từ đó chị xây dựng một trong những công trình xã hội lớn nhất nước. Mỗi ngày chị phục vụ hàng ngàn người mà không bao giờ mất đi sự dịu dàng. Chị trở nên nghèo với người nghèo vì tình yêu Đấng Tối Nghèo. Chị sống ít, cầu nguyện nhiều, phục vụ hân hoan. Đức tin không kéo chị xa khỏi thế giới, nhưng dìm chị sâu hơn vào nỗi đau của những người sau rốt.
79. Ta cũng có thể nhớ đến thánh Bênêđictô Menni và các Nữ tu Bệnh Viện Thánh Tâm Giêsu trong sứ vụ với người khuyết tật; thánh Charles de Foucauld giữa các cộng đoàn hoang mạc Sahara; thánh Katharine Drexel bên cạnh các nhóm bị thiệt thòi ở Bắc Mỹ; Nữ tu Emmanuelle với người nhặt rác ở Ezbet El Nakhl (Cairo); và còn rất nhiều vị khác. Mỗi người theo cách riêng đã khám phá: người nghèo không chỉ là đối tượng của lòng trắc ẩn, mà là thầy dạy Tin Mừng. Không phải là “đưa Chúa đến cho họ”, nhưng là gặp chính Chúa nơi họ. Tất cả cho thấy: phục vụ người nghèo không phải hành vi “từ trên xuống”, nhưng là cuộc gặp gỡ giữa những người bình đẳng, nơi Đức Kitô tỏ mình và được thờ lạy. Thánh Gioan Phaolô II nhắc chúng ta rằng “nơi người nghèo có một sự hiện diện đặc biệt [của Đức Kitô], buộc Giáo Hội phải chọn lựa ưu tiên dành cho họ.”[70] Vì thế, khi Giáo Hội cúi mình chăm sóc người nghèo, Giáo Hội đang đứng ở tư thế cao cả nhất.
Các phong trào quần chúng
80. Cũng phải nhìn nhận rằng, trong lịch sử Kitô giáo, việc trợ giúp người nghèo và đấu tranh cho quyền lợi của họ không chỉ do cá nhân, gia đình, tổ chức hay cộng đoàn tu trì đảm trách. Đã có, và đang có, nhiều phong trào quần chúng, do giáo dân kết hợp và các lãnh đạo bình dân dẫn dắt, nhiều khi bị nghi ngờ hay bách hại. Tôi muốn nói đến “một tập hợp những con người không đi như những cá thể, nhưng như kết cấu của một cộng đồng ‘của mọi người và cho mọi người’, không thể để những kẻ nghèo nhất và yếu nhất bị bỏ lại phía sau. […] Các lãnh đạo bình dân là những người có khả năng lôi cuốn tất cả vào cuộc. […] Họ không ghê sợ cũng không sợ hãi những người trẻ bị thương tích và bị đóng đinh.”[71]
81. Các lãnh đạo bình dân ấy hiểu rằng liên đới “cũng là chiến đấu chống lại các nguyên nhân cơ cấu của nghèo đói, bất bình đẳng, thiếu việc làm, đất đai, nhà ở, và việc chối bỏ các quyền xã hội–lao động; là đối diện các hệ lụy tàn phá của đế quốc đồng tiền […]. Liên đới, hiểu theo nghĩa sâu xa nhất, là một cách làm nên lịch sử, và đó chính là điều các phong trào quần chúng đang làm.”[72] Vì thế, khi các định chế khác nhau suy tư về nhu cầu của người nghèo, “cần mời gọi các phong trào quần chúng và truyền sinh lực cho các cấu trúc quản trị ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế bằng dòng năng lượng luân lý tuôn ra từ việc đưa những người bị loại trừ vào công trình xây dựng vận mệnh chung.”[73] Thật vậy, các phong trào quần chúng kêu gọi chúng ta vượt qua “não trạng chính sách xã hội như một chính sách ‘hướng đến’ người nghèo nhưng không bao giờ ‘với’ người nghèo, không bao giờ ‘do’ người nghèo và càng không được cấy vào một dự phóng quy tụ các dân tộc.”[74] Nếu chính khách và chuyên gia không lắng nghe họ, “nền dân chủ sẽ teo tóp, thành duy danh, hình thức; đánh mất tính đại diện, rơi khỏi thực tại vì gạt bỏ nhân dân đang đấu tranh hằng ngày cho phẩm giá, xây dựng vận mệnh của mình.”[75] Điều tương tự cũng phải nói về các cơ cấu của Giáo Hội.
CHƯƠNG IV
MỘT LỊCH SỬ VẪN TIẾP DIỄN
Thế kỷ của Học thuyết Xã hội Công giáo
82. Nhịp tăng tốc của những biến đổi công nghệ và xã hội trong hai thế kỷ qua, chất chứa bao nghịch lý bi thảm, không chỉ đè nặng trên người nghèo, mà còn được chính họ đối diện và suy tư. Các phong trào công nhân, phụ nữ và giới trẻ, cũng như cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, đã tạo nên một ý thức mới về phẩm giá của những người bị gạt ra bên lề. Đóng góp của Học thuyết Xã hội Công giáo cũng mang trong mình cội rễ bình dân ấy mà ta không được quên; thật khó thể tưởng tượng việc tái đọc mặc khải Kitô giáo trong các hoàn cảnh xã hội, lao động, kinh tế và văn hóa hiện đại nếu không có hàng giáo dân Kitô hữu đang vật lộn với những thách đố của thời đại mình. Đồng hành với họ là những nam nữ tu sĩ, chứng nhân của một Giáo Hội “đi ra” khỏi những lối mòn đã quen. Biến chuyển thời đại mà chúng ta đang đối diện hôm nay lại càng đòi hỏi hơn bao giờ hết sự tương tác liên lỉ giữa những người đã lãnh bí tích Rửa tội và Huấn quyền, giữa công dân và giới chuyên gia, giữa dân chúng và các định chế. Cách riêng, người ta tái khẳng định rằng thực tại được thấy rõ hơn từ các vùng ngoại vi, và rằng người nghèo là những chủ thể của một thứ trí khôn đặc thù, không thể thiếu cho Giáo Hội và cho nhân loại.
83. Huấn quyền trong một trăm năm mươi năm qua cung cấp một mạch nguồn đích thực các giáo huấn liên quan tới người nghèo. Theo cách ấy, các Giám mục Rôma đã trở nên tiếng nói của những lương tâm mới, được lưu tâm để biện phân trong lòng Giáo Hội. Chẳng hạn, trong thông điệp Rerum novarum (1891), Đức Lêô XIII đã đối diện vấn đề lao động, phơi bày tình cảnh không thể chấp nhận của nhiều công nhân công nghiệp, đồng thời đề nghị thiết lập một trật tự xã hội công chính. Các vị giáo hoàng khác cũng lên tiếng cùng chiều hướng. Với thông điệp Mater et Magistra (1961), thánh Gioan XXIII cổ võ nền công lý mang chiều kích hoàn vũ: các quốc gia giàu không thể dửng dưng trước những nước bị đói khát và lầm than đè nặng, nhưng được mời gọi quảng đại trợ giúp bằng mọi nguồn lực.
84. Công đồng Vaticanô II đánh dấu một chặng nền tảng trong biện phân của Giáo Hội về người nghèo dưới ánh sáng Mạc Khải. Dầu trong các văn kiện tiền công đồng, đề tài này còn khiêm tốn, nhưng từ sứ điệp phát thanh ngày 11.9.1962, một tháng trước lễ khai mạc Công đồng, thánh Gioan XXIII đã đặt trọng tâm bằng những lời không thể quên: “Giáo Hội trình bày chính mình như là và như muốn là: Giáo Hội của mọi người, đặc biệt là Giáo Hội của người nghèo.”[76] Từ đó, công trình lớn lao của các giám mục, thần học gia và chuyên viên thao thức canh tân Giáo Hội — được chính thánh Gioan XXIII nâng đỡ — đã tái hướng Công đồng. Nền tảng của sự nẩy men này là đặt Đức Kitô làm trung tâm, nghĩa là mang chiều kích tín lý chứ không thuần xã hội. Quả thế, nhiều nghị phụ cổ vũ việc củng cố ý thức, được Hồng y Lercaro diễn tả cách thâm tín trong bài can thiệp ngày 6.12.1962, rằng “mầu nhiệm Đức Kitô trong Giáo Hội luôn luôn, nhưng hôm nay cách riêng, là mầu nhiệm Đức Kitô nơi người nghèo,”[77] và rằng “đây không phải chỉ là một chủ đề thêm vào, nhưng theo một nghĩa nào đó là chủ đề duy nhất của toàn thể Vaticanô II.”[78] Vị Tổng Giám mục Bologna, khi soạn văn bản này, đã ghi chú: “Đây là giờ của người nghèo, của hàng triệu người nghèo khắp mặt đất; đây là giờ của mầu nhiệm Giáo Hội là mẹ của người nghèo; đây là giờ của mầu nhiệm Đức Kitô, nhất là nơi người nghèo.”[79] Như vậy, dần ló dạng nhu cầu về một dáng thức giáo hội mới, giản dị và tiết độ hơn, lôi cuốn toàn Dân Thiên Chúa và dung mạo lịch sử của mình: một Giáo Hội giống Chúa mình hơn là giống các quyền lực thế gian, nhằm khơi dậy trong nhân loại một dấn thân cụ thể để giải quyết đại vấn nạn nghèo đói trên địa cầu.
85. Thánh Phaolô VI, nhân dịp khai mạc khóa họp thứ hai của Công đồng, đã nối lại chủ đề vị tiền nhiệm nêu lên về một Giáo Hội nhìn với quan tâm đặc biệt “đến người nghèo, người túng thiếu, kẻ ưu sầu, người đói khát, bệnh nhân, người bị giam cầm, nghĩa là đến toàn thể nhân loại đang đau khổ và khóc than; họ thuộc về Giáo Hội theo quyền của Tin Mừng.”[80] Trong buổi triều yết chung ngày 11.11.1964, ngài nhấn mạnh rằng “người nghèo là hiện thân của Đức Kitô,” và, khi đặt bên nhau hình ảnh Chúa nơi những kẻ bé mọn với hình ảnh hiện lộ nơi Đức Giáo hoàng, ngài nói: “Sự hiện diện của Đức Kitô nơi người nghèo mang tính phổ quát, mọi người nghèo phản chiếu Đức Kitô; còn nơi Đức Giáo hoàng là tính cách ngôi vị. […] Người nghèo và thánh Phêrô có thể gặp nhau, có thể là cùng một con người, mặc lấy hai hình thức đại diện: nghèo khó và thẩm quyền.”[81] Như thế, mối dây nội tại giữa Giáo Hội và người nghèo được diễn tả biểu tượng với một sự minh bạch độc đáo.
86. Trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes, khi làm mới di sản của các Thánh Giáo Phụ, Công đồng đã mạnh mẽ khẳng định định mệnh phổ quát của của cải trần thế và hệ quả là chức năng xã hội của quyền sở hữu: «Thiên Chúa đã an bài cho trái đất và mọi sự trong đó được dùng cho hết thảy mọi người và mọi dân tộc. Vì thế, các thụ tạo phải đến với mọi người […]. Do đó, khi sử dụng, con người không được coi những của cải bên ngoài mà mình hợp pháp sở hữu như của riêng tuyệt đối, nhưng còn như của chung, theo nghĩa là không chỉ có lợi cho riêng mình mà còn cho người khác. Hơn nữa, quyền sở hữu một phần của cải đủ cho bản thân và gia đình là quyền thuộc về hết thảy mọi người. […] Ai ở trong tình trạng túng quẫn cùng cực có quyền lấy từ của cải của kẻ khác điều cần thiết cho mình. […] Chính quyền sở hữu tư nhân cũng tự bản tính mang một chiều kích xã hội, nền tảng nằm ở định mệnh chung của của cải. Khi chiều kích xã hội này bị xem nhẹ, quyền sở hữu thường trở thành dịp cho tham vọng và những rối loạn trầm trọng». [82] Xác tín này lại được thánh Phaolô VI thúc đẩy trong thông điệp Populorum progressio, nơi ta đọc thấy: không ai có thể tự cho phép mình «giữ riêng để sử dụng độc quyền những gì vượt quá nhu cầu bản thân khi người khác thiếu điều cần thiết». [83] Trong bài diễn văn tại Liên Hiệp Quốc, Đức Montini đã tự giới thiệu như người biện hộ cho các dân tộc nghèo, [84] kêu gọi cộng đồng quốc tế xây dựng một thế giới liên đới.
87. Với thánh Gioan Phaolô II, ít là trên bình diện tín lý, mối tương quan ưu tiên của Giáo Hội với người nghèo được củng cố. Huấn quyền của ngài nhìn nhận rằng chọn lựa dành ưu tiên cho người nghèo là “một hình thức đặc thù của tính ưu việt trong việc thực thi đức ái Kitô giáo, điều mà toàn bộ truyền thống Giáo Hội đã làm chứng.”[85] Trong thông điệp Sollicitudo rei socialis, ngài còn viết: ngày nay, xét đến tầm vóc hoàn vũ của vấn đề xã hội, “tình yêu ưu tiên này, cùng những quyết định nó gợi hứng, không thể không bao trùm vô vàn đám đông đói khát, hành khất, vô gia cư, không được chăm sóc y tế và nhất là không có hy vọng về tương lai tốt đẹp hơn: không thể quên sự hiện hữu của thực tại này. Làm như không thấy sẽ là tự đồng hóa với ‘ông phú hộ’ giả vờ không hề biết anh Ladarô ăn mày nằm trước cửa (x. Lc 16,19–31).”[86] Giáo huấn của ngài về lao động có tầm quan trọng khi ta muốn suy tư về vai trò chủ động của người nghèo trong việc canh tân Giáo Hội và xã hội, vượt khỏi lối gia trưởng chỉ đáp ứng nhu cầu tức thời. Trong thông điệp Laborem exercens, ngài xác quyết: “Lao động của con người là một chìa khóa, có lẽ là chìa khóa cốt yếu, của toàn bộ vấn đề xã hội.”[87]
88. Trước những khủng hoảng chồng chất ở đầu thiên niên kỷ thứ ba, cách đọc của Đức Bênêđictô XVI mang sắc thái chính trị rõ nét hơn. Trong thông điệp Caritas in veritate, ngài khẳng định rằng «ta yêu tha nhân càng hữu hiệu bao nhiêu, khi càng ra sức cho công ích đáp ứng cả những nhu cầu thực sự của họ bấy nhiêu». [88] Ngài còn nhận xét rằng «nạn đói không lệ thuộc quá nhiều vào sự thiếu thốn vật chất cho bằng vào sự thiếu hụt các nguồn lực xã hội, trong đó quan trọng nhất mang tính định chế. Nghĩa là đang thiếu một hệ thống các định chế kinh tế có khả năng vừa bảo đảm việc tiếp cận nguồn nước và lương thực một cách đều đặn và thích đáng về mặt dinh dưỡng, vừa đáp ứng các đòi hỏi liên quan đến những nhu cầu cơ bản và những tình huống khẩn cấp của các cuộc khủng hoảng lương thực thực sự, do nguyên nhân tự nhiên hoặc do sự vô trách nhiệm về chính trị ở cấp quốc gia và quốc tế». [89]
89. Đức Giáo hoàng Phanxicô ghi nhận rằng, ngoài huấn quyền của các Giáo hoàng Rôma, trong các thập niên gần đây, những lập trường của các Hội đồng Giám mục quốc gia và liên quốc gia về đề tài này ngày càng dày đặc. Chẳng hạn, ngài có thể làm chứng tận mắt cho dấn thân đặc biệt của hàng giám mục châu Mỹ Latinh khi suy tư về tương quan giữa Giáo Hội và người nghèo. Thời hậu Công đồng, tại hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh, người ta cảm nghiệm sâu xa sự đồng hóa của Giáo Hội với người nghèo và việc tham gia tích cực vào công cuộc giải cứu họ. Chính con tim của Giáo Hội đã rung động trước đám đông nghèo khổ, thất nghiệp, thiếu việc làm, lương bất công và buộc phải sống trong điều kiện bần cùng. Cuộc tử đạo của thánh Oscar Romero, Tổng Giám mục San Salvador, đồng thời là một chứng tá và một lời khích lệ sống động cho Giáo Hội: ngài cảm nhận nỗi đau của đa số tín hữu như nỗi đau của mình và đặt họ vào trung tâm chọn lựa mục vụ. Các Đại hội Thượng Hội Đồng Giám Mục Mỹ-Latinh và Caribê (CELAM) tại Medellín, Puebla, Santo Domingo và Aparecida là những cột mốc ý nghĩa cho toàn thể Giáo Hội. Bản thân tôi, từng là nhà truyền giáo nhiều năm tại Peru, rất mắc nợ lộ trình biện phân giáo hội này, lộ trình mà Đức Phanxicô đã khéo léo nối kết với các Giáo Hội địa phương khác, đặc biệt là ở Miền Nam toàn cầu. Giờ đây, tôi muốn nhắc đến hai chủ đề chuyên biệt của huấn quyền giám mục này.
Những cơ cấu tội gây nên nghèo đói và bất bình đẳng cùng cực
90. Tại Medellín, các giám mục đã tuyên xưng chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo: «Đức Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, không chỉ yêu thương người nghèo, nhưng “đang giàu sang, đã tự ý trở nên nghèo khó”, Người đã sống trong nghèo khó, đặt trọng tâm sứ vụ của mình vào việc loan báo cho người nghèo niềm giải phóng, và thiết lập Giáo Hội như dấu chỉ của chính cảnh nghèo ấy giữa loài người. […] Cảnh nghèo của biết bao anh chị em kêu mời công lý, liên đới, chứng tá, dấn thân, nỗ lực và vượt thắng, để chu toàn trọn vẹn sứ mạng cứu độ mà Đức Kitô ủy thác». [90] Các giám mục mạnh mẽ khẳng định rằng, để trung tín trọn vẹn với ơn gọi của mình, Giáo Hội không chỉ phải chia sẻ thân phận của người nghèo, mà còn phải đứng về phía họ, siêng năng dấn thân cho việc thăng tiến toàn diện của họ. Trước tình cảnh nghèo đói trầm trọng hơn tại châu Mỹ Latinh, Đại Hội Puebla đã xác nhận quyết nghị của Medellín bằng một chọn lựa minh bạch và ngôn sứ cho người nghèo, đồng thời gọi các cơ cấu bất công là “tội xã hội.”
91. Đức ái là một sức mạnh biến đổi thực tại, một quyền năng lịch sử đích thực. Đây là mạch nguồn mà mọi dấn thân “giải quyết các nguyên nhân cơ cấu của nghèo đói”[91] phải quy chiếu, và cần được thực thi khẩn cấp. Vì thế, tôi ước mong “ngày càng có nhiều chính khách có khả năng bước vào đối thoại đích thực, nhắm hữu hiệu tới việc chữa lành tận căn chứ không dừng ở bề nổi các căn bệnh của thế giới chúng ta,”[92] bởi “điều hệ tại là biết lắng nghe tiếng kêu của cả những dân tộc nghèo nhất trên mặt đất.”[93]
92. Do đó, cần tiếp tục tố giác “nền độc tài của một nền kinh tế sát nhân,” và nhìn nhận rằng “trong khi lợi nhuận của một thiểu số tăng theo cấp số nhân, thì lợi ích của đa số ngày càng bị bỏ lại xa so với sự sung túc của ‘thiểu số hạnh phúc’ ấy. Sự mất cân đối này bắt nguồn từ các ý thức hệ cổ vũ quyền tự trị tuyệt đối của thị trường và đầu cơ tài chính; từ đó, người ta phủ nhận quyền kiểm soát của Nhà nước, vốn được ủy thác nhiệm vụ lo cho công ích. Một thứ chuyên chế mới vô hình, đôi khi ảo, được thiết lập, áp đặt đơn phương và không thương xót các luật lệ của nó.”[94] Dẫu có nhiều lý thuyết biện minh hiện trạng hoặc khuyên chờ đợi “bàn tay vô hình” giải quyết mọi sự, thì phẩm giá của từng nhân vị phải được tôn trọng ngay bây giờ, không phải ngày mai; còn tình cảnh cùng quẫn của bao người đang bị chối từ phẩm giá phải là tiếng gọi thường trực đánh thức lương tâm chúng ta.
93. Trong thông điệp Dilexit nos, Đức Phanxicô nhắc: tội xã hội mang hình hài “cơ cấu tội” trong xã hội, “nhiều khi […] được cấy vào một não trạng thống trị coi là bình thường hay hợp lý những gì kỳ thực chỉ là ích kỷ và dửng dưng. Hiện tượng ấy có thể gọi là ‘tha hóa xã hội’.”[95] Trở nên bình thường khi làm ngơ người nghèo và sống như thể họ không hiện hữu. Được trình bày như một chọn lựa hợp lý khi tổ chức nền kinh tế đòi người dân hy sinh để đạt những mục tiêu phục vụ quyền lực; còn người nghèo chỉ nhận toàn lời hứa “rỉ giọt,” cho đến khi một khủng hoảng toàn cầu mới lại đẩy họ về chỗ cũ. Ấy là một sự tha hóa thực sự, khi chỉ tìm cớ lý thuyết mà không dám giải quyết hôm nay các vấn đề cụ thể của những người đang đau khổ. Thánh Gioan Phaolô II từng nói: “Một xã hội bị tha hóa là xã hội mà cách tổ chức đời sống xã hội, sản xuất và tiêu thụ làm cho việc tự hiến và hình thành liên đới liên nhân loại trở nên khó khăn hơn.”[96]
94. Chúng ta phải dấn thân ngày càng nhiều hơn để giải quyết các nguyên nhân cơ cấu của nghèo đói. Đây là một khẩn thiết “không thể trì hoãn, không chỉ vì đòi hỏi thực dụng nhằm đạt kết quả và xếp đặt xã hội, nhưng còn để chữa lành một căn bệnh làm xã hội suy nhược và bất xứng, chỉ có thể dẫn tới những khủng hoảng mới. Các kế hoạch trợ giúp, vốn nhằm đáp ứng một số khẩn cấp, chỉ nên được xem như giải pháp tạm thời.”[97] Sự thiếu công bằng “là cội rễ của các tệ nạn xã hội.”[98] Thực tế, “người ta nhiều lần nhận thấy rằng các quyền con người, trên thực tế, không bình đẳng cho hết mọi người.”[99]
95. Hóa ra, “trong mô hình ‘thành công’ và ‘tư hữu hóa’ đang thịnh hành, người ta chẳng thấy ý nghĩa gì ở việc đầu tư để những kẻ chậm chạp, yếu thế hay kém năng khiếu có thể mở lối tiến thân.”[100] Câu hỏi cứ trở đi trở lại: những người kém năng khiếu không phải là nhân vị sao? Kẻ yếu thế chẳng có cùng phẩm giá với ta sao? Những người sinh ra ít cơ hội hơn có giá trị kém hơn với tư cách con người sao, và chỉ nên chấp nhận sống cầm chừng sao? Từ câu trả lời của chúng ta, định giá các xã hội của ta, và chính tương lai chúng ta, cũng tùy thuộc. Hoặc ta giành lại phẩm giá luân lý và thiêng liêng của mình, hoặc ta rơi xuống một vực bẩn nhơ. Nếu không nghiêm túc dừng lại, chúng ta sẽ tiếp tục, công khai hay ngấm ngầm, hợp thức hóa “mô hình phân phối hiện tại, nơi một thiểu số tự cho mình quyền tiêu thụ theo một tỷ lệ không thể phổ quát hóa, vì trái đất thậm chí không thể chứa nổi chất thải của lối tiêu thụ như thế.”[101]
96. Trong các vấn đề cơ cấu — không thể tưởng rằng sẽ được giải quyết từ trên cao và cần sớm được đảm đương — có vấn đề về nơi chốn, không gian, nhà ở và đô thị nơi người nghèo sinh sống và đi lại. Chúng ta biết rằng: “đẹp biết bao là các đô thị vượt thắng sự ngờ vực bệnh hoạn và hội nhập những khác biệt, biến sự hội nhập ấy thành nhân tố phát triển mới! Thật đáng quý những thành phố mà đến cả trong thiết kế kiến trúc cũng đầy ắp không gian kết nối, liên hệ, giúp nhận biết tha nhân!”[102] Đồng thời, “chúng ta không thể không xét tới các hệ quả do suy thoái môi trường, do mô hình phát triển hiện nay và do văn hóa vứt bỏ trên đời sống con người.”[103] Thực vậy, “sự thoái hóa môi trường và xã hội đụng chạm cách đặc biệt tới những kẻ yếu nhất trên địa cầu.”[104]
97. Vì thế, trách nhiệm của mọi phần tử Dân Thiên Chúa là, bằng nhiều cách, cất lên một tiếng nói đánh thức, tố giác và dấn thân, dẫu có nguy cơ bị xem là ‘ngớ ngẩn’. Các cơ cấu bất công cần được vạch mặt và phá bỏ bằng sức mạnh của điều thiện, qua thay đổi não trạng, nhưng cũng nhờ trợ lực của khoa học và kỹ thuật, bằng việc phát triển những chính sách hữu hiệu để biến đổi xã hội. Luôn phải nhớ: đề nghị của Tin Mừng không chỉ là một mối tương quan cá vị và mật thiết với Chúa. Đề nghị ấy rộng hơn: “đó là Nước Thiên Chúa (x. Lc 4,43); nghĩa là yêu mến Thiên Chúa đang hiển trị trong thế giới. Ở mức độ Người có thể hiển trị giữa chúng ta, đời sống xã hội sẽ là môi trường của huynh đệ, công lý, bình an, phẩm giá cho mọi người. Khi ấy, cả lời loan báo lẫn kinh nghiệm Kitô giáo đều hướng tới gây nên các hệ quả xã hội. Chúng ta tìm kiếm Nước của Người.”[105]
98. Sau cùng, một văn kiện khi mới công bố đã không được một số người đón nhận, nay vẫn trao cho ta một suy tư thời sự: “Đôi khi người bảo vệ ‘chính thống’ bị quở trách thụ động, dễ dãi hoặc đồng lõa đối với các tình huống bất công không thể chịu đựng và các chế độ duy trì chúng. Hoán cải thiêng liêng, mãnh lực của tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, nhiệt tâm cho công lý và hòa bình, cảm thức Tin Mừng về người nghèo và cảnh nghèo, mọi điều ấy được đòi hỏi nơi hết thảy, và cách riêng nơi các mục tử và những người có trách nhiệm. Mối quan tâm gìn giữ sự tinh tuyền của đức tin phải đi liền với mối quan tâm dâng hiến, bằng một đời sống đối thần toàn vẹn, câu trả lời là chứng tá hữu hiệu của phục vụ tha nhân, nhất là người nghèo và người bị áp bức.”[106]
Người nghèo như là chủ thể
99. Một hồng ân nền tảng cho lộ trình của Giáo Hội hoàn vũ được thể hiện nơi biện phân của Đại Hội Aparecida, nơi các giám mục châu Mỹ Latinh minh nhiên nói rằng chọn lựa ưu tiên của Giáo Hội dành cho người nghèo “ẩn tàng trong đức tin Kitô học vào chính Thiên Chúa đã trở nên nghèo vì chúng ta, để nhờ sự nghèo của Người mà ta được trở nên giàu có.”[107] Văn kiện đặt sứ mạng trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa hiện nay với những mất cân đối mới và bi thảm,[108] và trong sứ điệp bế mạc, các giám mục viết: “Những dị biệt sâu sắc giữa giàu và nghèo mời gọi chúng ta nỗ lực hơn nữa để trở nên những môn đệ biết chia sẻ bàn tiệc của sự sống, bàn tiệc của mọi con cái Chúa Cha, bàn tiệc rộng mở, bao gồm, không để ai thiếu vắng. Bởi thế, chúng tôi tái khẳng định chọn lựa ưu tiên và Tin Mừng dành cho người nghèo.”[109]
100. Đồng thời, văn kiện — đào sâu một chủ đề đã có trong các Đại hội trước của hàng giám mục Mỹ Latinh — nhấn mạnh cần xem các cộng đồng bị gạt ra bên lề như những chủ thể có khả năng kiến tạo văn hóa riêng, hơn là những đối tượng bác ái. Điều này bao hàm quyền của các cộng đồng ấy được sống Tin Mừng, cử hành và truyền đạt đức tin theo những giá trị hiện diện trong văn hóa của họ. Kinh nghiệm nghèo khó trao cho họ khả năng nhận ra những chiều cạnh của thực tại mà người khác không thấy; vì lẽ đó, xã hội cần lắng nghe họ. Điều ấy cũng đúng cho Giáo Hội, vốn phải trân trọng tích cực cách “bình dân” mà họ sống đức tin. Một bản văn đẹp trong văn kiện bế mạc Aparecida giúp chúng ta suy tư về điểm này để tìm thái độ đúng đắn: “Chỉ có sự gần gũi làm cho chúng ta nên bạn hữu mới cho phép chúng ta thấu cảm sâu xa các giá trị của người nghèo hôm nay, những khát vọng chính đáng và cách thế riêng của họ trong việc sống đức tin. […] Ngày qua ngày, người nghèo trở nên chủ thể của việc loan báo Tin Mừng và của thăng tiến con người toàn diện: họ giáo dục con cái trong đức tin, sống liên đới bền bỉ giữa họ hàng và láng giềng, không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa và làm cho cuộc lữ hành của Giáo Hội thêm sinh động. Dưới ánh sáng Tin Mừng, chúng ta nhận ra phẩm giá bao la và giá trị thánh thiêng của họ trước mắt Đức Kitô, Đấng nghèo như họ và bị loại trừ giữa họ. Từ kinh nghiệm đức tin này, chúng ta sẽ cùng họ bảo vệ các quyền lợi của họ.”[110]
101. Tất cả điều ấy bao hàm một khía cạnh trong chọn lựa dành cho người nghèo mà chúng ta phải không ngừng ghi nhớ: chọn lựa này thực ra đòi nơi chúng ta “một sự chú tâm hướng về tha nhân […]. Sự chú tâm yêu thương ấy là khởi đầu của một mối bận tâm đích thực đối với con người của họ, từ đó tôi ước muốn thực sự tìm kiếm thiện ích của họ. Điều này bao gồm việc trân trọng người nghèo trong sự thiện hảo riêng của họ, với cách thế hiện hữu, với văn hóa của họ, với lối sống đức tin của họ. Tình yêu đích thực luôn mang tính chiêm niệm: nó giúp chúng ta phục vụ tha nhân không vì nhu cầu hay hư danh, nhưng vì họ đẹp, vượt quá bề ngoài. […] Chỉ từ một sự gần gũi thực sự và thắm thiết như thế, chúng ta mới có thể đồng hành thích đáng với họ trên con đường giải phóng.”[111] Vì lý do ấy, tôi xin chân thành tri ân tất cả những ai đã chọn sống giữa người nghèo, nghĩa là những người không chỉ thỉnh thoảng đến thăm, nhưng sống với họ và như họ. Đây là một chọn lựa xứng đáng chiếm chỗ trong những hình thức cao quý nhất của đời sống Tin Mừng.
102. Trong viễn tượng này, thật hiển nhiên nhu cầu «để tất cả chúng ta cho mình được người nghèo loan báo Tin Mừng» [112], và để mọi người chúng ta nhận ra «sự khôn ngoan nhiệm mầu mà Thiên Chúa muốn thông truyền cho chúng ta qua họ» [113]. Lớn lên giữa cảnh bấp bênh cùng cực, học cách sinh tồn giữa những điều kiện khắc nghiệt nhất, tín thác nơi Thiên Chúa với xác tín rằng chẳng ai khác coi họ cách nghiêm túc, nâng đỡ nhau trong những giờ phút tăm tối nhất, người nghèo đã học biết nhiều điều và cất giữ trong mầu nhiệm tâm hồn. Những ai trong chúng ta chưa từng trải qua những hoàn cảnh tương tự, một đời sống sống ở lằn ranh, hẳn có rất nhiều điều để lãnh nhận từ suối nguồn khôn ngoan là kinh nghiệm của người nghèo. Chỉ khi đem những lời phàn nàn của mình so với đau khổ và thiếu thốn của họ, ta mới có thể đón nhận một lời khiển trách mời gọi ta đơn giản hóa đời sống.
CHƯƠNG V
MỘT THÁCH ĐỐ KHÔNG NGỪNG
103. Tôi quyết định gợi lại dòng lịch sử hai ngàn năm quan tâm của Giáo Hội đến người nghèo và cùng với người nghèo, để cho thấy điều ấy là phần cốt yếu trong lộ trình bất tuyệt của Giáo Hội. Việc chăm sóc người nghèo thuộc về Đại Truyền Thống của Giáo Hội, như một ngọn hải đăng tỏa sáng từ Tin Mừng, đã soi lòng và bước chân các Kitô hữu qua mọi thời. Bởi đó, chúng ta phải cảm nhận sự cấp bách của việc mời gọi mọi người dìm mình vào dòng sông ánh sáng và sự sống này, phát sinh từ việc nhận ra Đức Kitô nơi dung nhan của những người túng thiếu và đau khổ. Tình yêu đối với người nghèo là yếu tố cốt yếu trong lịch sử Thiên Chúa ở với chúng ta; từ trái tim Giáo Hội, tình yêu ấy vang lên như một lời mời liên lỉ trong tâm hồn các tín hữu, cả nơi cộng đoàn lẫn từng người. Là Thân Thể Đức Kitô, Giáo Hội cảm nhận như chính “thịt mình” đời sống của người nghèo, những thành phần ưu tuyển của Dân Chúa đang lữ hành. Vì lý do đó, tình yêu dành cho những ai nghèo, dù sự nghèo ấy biểu hiện thế nào, là bảo chứng Tin Mừng của một Giáo Hội trung tín với trái tim Thiên Chúa. Thật vậy, mọi cuộc canh tân trong lòng Giáo Hội luôn đặt ưu tiên cho chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo, điều khác biệt, cả về động lực lẫn phong cách, với các hoạt động của bất cứ tổ chức nhân đạo nào.
104. Kitô hữu không thể chỉ xem người nghèo như một vấn đề xã hội; họ là một “vấn đề gia đình”, là “của chúng ta”. Tương quan của chúng ta với họ không thể giản lược thành một hoạt động hay một “văn phòng” trong Giáo Hội. Như Đại Hội Aparecida dạy: «Chúng ta được mời gọi dành thời giờ cho người nghèo, chăm chú dịu dàng với họ, lắng nghe họ cách quan tâm, đồng hành với họ trong những thời khắc gian nan nhất, chọn họ để cùng sẻ chia những giờ, những tuần hay những năm đời ta, và từ nơi họ, tìm cách biến đổi hoàn cảnh của họ. Ta không thể quên rằng chính Chúa Giêsu đã đề nghị điều ấy bằng cách sống và bằng lời của Người». [114]
Người Samari nhân hậu - một lần nữa
105. Nền văn hóa chủ đạo vào buổi đầu thiên niên kỷ này xúi giục bỏ mặc người nghèo cho số phận của họ, coi họ không xứng đáng được quan tâm, càng không xứng đáng được trân trọng. Trong thông điệp Fratelli tutti, Đức Phanxicô mời gọi chúng ta suy niệm dụ ngôn người Samari nhân hậu (x. Lc 10,25–37) để đào sâu điểm này. Trong dụ ngôn ấy, trước người bị thương và bị bỏ rơi bên vệ đường, thái độ của những kẻ đi qua không giống nhau; chỉ người Samari nhân hậu dừng lại chăm sóc. Và thế là vang lên câu hỏi chất vấn từng người: «Bạn đồng hóa mình với ai? Câu hỏi này thẳng thắn, trực diện và mang tính quyết định. Bạn giống ai trong số họ?» Chúng ta cần nhận ra cám dỗ quang ta là dửng dưng trước tha nhân, nhất là trước những người yếu đuối. Phải nói thật: chúng ta đã trưởng thành ở nhiều phương diện, nhưng lại “mù chữ” trong việc đồng hành, chăm sóc và nâng đỡ những ai mong manh, yếu thế nhất trong các xã hội phát triển của chúng ta. Chúng ta đã quen nhìn sang chỗ khác, đi vòng qua, làm ngơ trước các tình cảnh, cho đến khi chúng đập thẳng vào mắt chúng ta. [115]
106. Thật là điều tốt nếu khám phá rằng khung cảnh người Samari nhân hậu vẫn tái diễn hôm nay. Hãy nhớ tình huống này trong thời đại chúng ta: «Khi gặp một người ngủ màn trời chiếu đất giữa đêm lạnh, tôi có thể cảm thấy cái thân người ấy là một điều bất ngờ quấy rầy, một kẻ vô công rỗi nghề, một chướng ngại trên đường, một cái gai nhức nhối lương tâm, một vấn đề dành cho giới chính trị, thậm chí là rác rưởi làm bẩn không gian công cộng. Hoặc tôi có thể phản ứng từ đức tin và đức ái, nhận ra nơi người ấy một con người có cùng phẩm giá với tôi, một thụ tạo được Chúa Cha yêu vô cùng, một hình ảnh của Thiên Chúa, một người anh em đã được Đức Kitô cứu chuộc. Ấy mới là Kitô hữu! Liệu có thể hiểu sự thánh thiện tách rời nhận thức sống động ấy về phẩm giá của mọi người không?». [116] Vậy, người Samari đã làm gì?
107. Câu hỏi trở nên khẩn thiết, vì giúp ta nhận ra một thiếu sót trầm trọng trong các xã hội, và cả trong các cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta. Thực tế, nhiều hình thức dửng dưng hôm nay «là dấu chỉ của một lối sống phổ biến, biểu hiện dưới nhiều dạng, có khi rất tinh vi. Hơn nữa, vì ai nấy đều chăm chăm vào nhu cầu riêng, nên thấy người đau khổ là ta bực bội, bị khuấy động, vì không muốn “mất thời giờ” vì vấn đề của kẻ khác. Đó là triệu chứng của một xã hội bệnh hoạn, một xã hội muốn xây dựng mình quay lưng lại với nỗi đau. Tốt hơn là đừng rơi vào cảnh bần cùng ấy. Hãy nhìn mẫu gương người Samari nhân hậu». [117] Những lời cuối của dụ ngôn tin mừng— «Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy» (Lc 10,37) — là mệnh lệnh mà Kitô hữu phải nghe vang lên mỗi ngày trong lòng.
Một thách đố không thể lẩn tránh cho Giáo Hội hôm nay
108. Vào một thời kỳ đặc biệt khó khăn của Giáo Hội Rôma, khi các thiết chế đế quốc sụp đổ dưới áp lực các bộ tộc “man di”, thánh Grêgôriô Cả đã khuyên nhủ các tín hữu: «Mỗi ngày, nếu tìm, chúng ta gặp thấy Ladarô; thậm chí, không tìm, chúng ta vẫn nhìn thấy ông. Hãy xem: mọi giờ phút, người nghèo đến và nay họ đang xin chúng ta, những người một mai sẽ đến như những đấng chuyển cầu cho chúng ta. […] Đừng để lỡ thời của lòng thương xót; đừng coi thường các phương dược anh em đã lãnh nhận». [118] Với sự can đảm, ngài thách đố những định kiến phổ biến về người nghèo, chẳng hạn những ai cho rằng chính họ phải chịu trách nhiệm về cảnh khốn cùng của mình: «Khi thấy một vài người nghèo làm điều đáng trách, đừng khinh bỉ, đừng ngờ vực; bởi lẽ có thể lò lửa của cảnh nghèo đang thanh luyện phần dư thừa của một chút ác ý vương vấn nơi họ». [119] Nhiều phen, của cải làm chúng ta ra mù lòa, đến nỗi nghĩ rằng hạnh phúc của mình chỉ có thể thành tựu nếu loại trừ người khác. Ở điểm này, người nghèo có thể là những bậc thầy thinh lặng, đưa niềm kiêu hãnh và tự phụ của ta về lại sự khiêm nhu chính đáng.
109. Nếu đúng là người nghèo được nâng đỡ bởi những ai có phương tiện, thì cũng có thể xác quyết điều ngược lại. Đó là kinh nghiệm gây ngạc nhiên, được truyền thống Kitô giáo chính mình chứng thực, và trở nên khúc quanh thực sự trong đời sống chúng ta, khi ta nhận ra: chính người nghèo loan báo Tin Mừng cho ta. Bằng cách nào? Người nghèo, trong thinh lặng của thân phận, đặt ta trước thực tại của yếu đuối mình. Người cao niên, chẳng hạn, với thân xác hao mòn, nhắc ta về sự mong manh, dẫu ta cố che bằng tiện nghi hay bề thế bên ngoài. Người nghèo còn giúp ta suy tư về tính bấp bênh của sự kiêu hãnh hung hăng mà ta thường mang ra đối diện khó khăn. Tựu trung, họ vạch lộ sự mỏng dòn và cái rỗng của một đời sống tưởng như an toàn được bảo vệ. Ở đây, chúng ta lại nghe lời thánh Grêgôriô Cả: «Vậy, đừng ai tự cho mình vững chắc mà nói: Ta không cướp của người, mà hưởng dùng cách chính đáng của cải ta được lãnh; bởi người phú hộ kia không bị luận phạt vì lấy của người, nhưng vì giữ lại cách ác độc của cải đã lãnh. Điều đưa ông xuống âm phủ còn là: không biết sợ hãi trong cảnh phú quý, đem các ân huệ nhận lãnh phục vụ tính kiêu ngạo, và không có lòng xót thương». [120]
110. Đối với chúng ta là Kitô hữu, vấn đề người nghèo dẫn ta đến cốt lõi của đức tin. Chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo, nghĩa là tình yêu của Giáo Hội dành cho họ, như thánh Gioan Phaolô II dạy, «là yếu tố quyết định và thuộc truyền thống không gián đoạn của Giáo Hội; nó thúc đẩy Giáo Hội hướng đến một thế giới, nơi mà, bất chấp tiến bộ kỹ thuật-kinh tế, cảnh nghèo đang đe dọa mang kích thước khổng lồ». [121] Thực tại là: đối với Kitô hữu, người nghèo không phải một hạng mục xã hội học, nhưng là chính “thịt” của Đức Kitô. Thật vậy, không đủ để tuyên bố chung chung tín điều Thiên Chúa làm người; muốn đi sâu vào mầu nhiệm ấy, cần minh định rằng Chúa làm người, “thịt” biết đói khát, ốm đau, tù đày. «Một Giáo Hội nghèo cho người nghèo khởi đi từ việc tiến đến với “thịt” của Đức Kitô. Khi tiến đến với “thịt” của Người, chúng ta mới bắt đầu hiểu phần nào: hiểu thế nào là cảnh nghèo, cảnh nghèo của Chúa. Và điều đó không dễ». [122]
111. Trái tim của Giáo Hội, tự bản chất, liên đới với những ai nghèo, bị loại trừ, bên lề; với những ai bị coi là “đồ bỏ” của xã hội. Người nghèo ở trung tâm Giáo Hội, bởi «từ đức tin vào Đức Kitô đã trở nên nghèo và luôn gần gũi người nghèo và bị loại trừ [mà] nảy sinh mối bận tâm về việc phát triển toàn diện những người bị bỏ rơi nhất trong xã hội». [123] Nơi trái tim mỗi tín hữu, «có lời mời phải lắng nghe tiếng kêu ấy [vốn] phát xuất từ chính công trình giải phóng của ân sủng trong mỗi người chúng ta; bởi thế, đây không phải là một sứ mạng dành riêng cho một vài người». [124]
112. Đôi khi người ta nhận thấy, nơi một số phong trào hay nhóm Kitô hữu, sự thiếu vắng, thậm chí vắng bóng, dấn thân cho công ích xã hội và, cách riêng, cho việc bảo vệ, thăng tiến những người yếu thế và bất lợi. Ở đây cần nhắc rằng tôn giáo, nhất là Kitô giáo, không thể bị giới hạn vào phạm vi tư riêng, như thể các tín hữu không phải bận tâm đến những vấn đề thuộc xã hội dân sự và những biến cố tác động đến công dân. [125]
113. Thực vậy, «bất cứ cộng đoàn nào trong Giáo Hội, nếu muốn an phận tồn tại mà không dấn thân cách sáng tạo và cộng tác hữu hiệu để người nghèo sống có phẩm giá và để mọi người được bao gồm, thì cũng có nguy cơ tự tan rã, dẫu có nói đến các đề tài xã hội hay chỉ trích chính quyền. Dễ dàng, họ sẽ chìm trong tính trần tục thiêng liêng, được che đậy bằng các thực hành đạo đức, các buổi nhóm vô sinh hoặc những bài diễn văn rỗng». [126]
114. Ở đây, không chỉ nói đến bác ái cứu trợ và dấn thân cần thiết cho công lý. Các tín hữu còn phải nhận ra một hình thức bất nhất khác đối với người nghèo. Thật vậy, «hình thức kỳ thị tệ hại nhất mà người nghèo phải chịu là thiếu sự chăm sóc thiêng liêng […]. Chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo phải được cụ thể hóa trước hết trong một chăm sóc tôn giáo ưu tiên và hàng đầu». [127] Tuy nhiên, việc chăm sóc thiêng liêng này lại bị thách thức bởi một số định kiến, cả nơi Kitô hữu, vì chúng ta cảm thấy thoải mái hơn khi không có người nghèo. Có người vẫn nói: “Nhiệm vụ của chúng tôi là cầu nguyện và dạy giáo lý đúng đắn.” Nhưng khi tách khía cạnh tôn giáo ấy khỏi việc thăng tiến toàn diện, họ lại thêm rằng chỉ chính quyền phải lo cho họ, hoặc tốt hơn cứ để họ trong cảnh túng thiếu để họ “học làm việc”. Đôi khi, người ta viện đến các tiêu chí giả–khoa học để nói rằng tự do thị trường sẽ tự động giải quyết vấn đề nghèo đói. Hoặc người ta chọn một mục vụ gọi là dành cho “tinh hoa”, biện minh rằng thay vì “mất thời giờ” với người nghèo, hãy lo cho người giàu, quyền lực, giới chuyên nghiệp, để qua họ đạt các giải pháp hữu hiệu hơn. Dễ thấy tính thế gian ẩn sau những quan điểm ấy: chúng khiến ta nhìn thực tại bằng tiêu chí hời hợt, thiếu mọi ánh sáng siêu nhiên, ưa chuộng những vòng xã hội ru ngủ chúng ta hoặc tìm kiếm đặc quyền dễ chịu cho mình.
Hôm nay, tiếp tục trao ban
115. Thật tốt nếu dành một lời cuối cho việc bố thí, điều mà hôm nay không được ưa chuộng, ngay cả giữa các tín hữu: không chỉ ít được thực hành, mà còn bị khinh thị. Một đàng, tôi xác nhận: trợ giúp quan trọng nhất cho người nghèo là nâng đỡ họ có một công việc tốt, để họ có thể mưu sinh xứng hợp phẩm giá, phát triển khả năng, dấn thân lao động. Thực tế, «thiếu việc làm còn hơn là thiếu một nguồn thu nhập để sống; việc làm đúng là như thế, nhưng còn là nhiều, rất nhiều nữa. Nhờ lao động, chúng ta trở nên “người” hơn, nhân tính nở hoa; người trẻ chỉ thực sự thành người trưởng thành nhờ làm việc. Học thuyết Xã hội Công giáo luôn nhìn lao động nhân linh như sự tham dự vào công trình tạo dựng tiếp diễn mỗi ngày, nhờ đôi tay, khối óc và con tim của người lao động». [128] Đàng khác, nếu chưa có khả năng cụ thể ấy, ta không thể liều bỏ mặc ai đó cho số phận, thiếu những điều tối thiểu để sống xứng nhân vị. Vì thế, bố thí vẫn là một giây phút cần thiết của tiếp xúc, gặp gỡ và đồng cảm với hoàn cảnh tha nhân.
116. Đối với ai thực lòng yêu mến, thật hiển nhiên: bố thí không miễn trừ trách nhiệm của các thẩm quyền hữu trách, không loại bỏ dấn thân có tổ chức của các định chế, càng không thể thay thế cuộc đấu tranh chính đáng cho công lý. Tuy nhiên, bố thí mời gọi ít là dừng lại và nhìn thẳng vào mặt người nghèo, chạm đến họ và chia sẻ với họ một phần của mình. Dẫu thế nào, việc bố thí, dù nhỏ bé, cũng gieo pietas (tấm lòng hiếu nghĩa) vào đời sống xã hội, nơi mà ai nấy dễ chỉ lo lợi ích riêng. Sách Châm ngôn nói: «Người quảng đại sẽ được chúc phúc, vì họ chia cơm sẻ bánh cho kẻ nghèo» (Cn 22,9).
117. Cựu Ước và Tân Ước đều chứa đựng những bài ca đích thực về việc bố thí: «Con hãy niềm nở với kẻ khiêm nhu, đừng để họ chờ đợi bố thí của con […]. Kho tàng cất giấu trong lẫm nhà con hãy là việc bố thí; chính nó sẽ gìn giữ con khỏi mọi điều dữ» (Hc 29,8.12). Và Chúa Giêsu lặp lại giáo huấn ấy: «Hãy bán tài sản của mình mà bố thí. Hãy sắm cho mình những túi tiền không hư nát và một kho tàng cạn kiệt không bao giờ ở trên trời» (Lc 12,33).
118. Người ta gán cho thánh Gioan Kim Khẩu lời khuyên này: «Bố thí là đôi cánh của cầu nguyện; không trao cánh cho cầu nguyện, nó sẽ không bay». [129] Và thánh Grêgôriô Nazianzênô kết một trong những lời nguyện lừng danh của ngài như sau: «Thật thế, nếu anh em tín thác nơi tôi điều chi, hỡi các tôi tớ của Đức Kitô, anh em và người đồng thừa kế, thì trong lúc chờ đợi, chúng ta hãy thăm viếng Đức Kitô, chữa lành Đức Kitô, cho Đức Kitô ăn, mặc cho Đức Kitô, đón tiếp Đức Kitô, tôn vinh Đức Kitô; không chỉ ở bàn tiệc như một số người; không chỉ bằng dầu thơm như Maria; không chỉ trong mồ như Giuse Arimathêa; không chỉ với những đồ mai táng như Nicôđêmô, người yêu Đức Kitô nửa vời; không chỉ bằng vàng, nhũ hương, mộc dược như các Đạo sĩ; nhưng vì Chúa của vũ trụ muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ […], chúng ta hãy dâng cho Người lòng xót thương ấy qua những kẻ túng thiếu và những người giờ đây bị vất xuống đất, để khi rời chốn này, ta được đón vào chốn cư ngụ vĩnh cửu». [130]
119. Cần nuôi dưỡng tình yêu và các xác tín sâu xa, điều ấy được thực hiện bằng những cử chỉ. Dừng lại ở thế giới ý tưởng và tranh luận, mà không có những cử chỉ cá vị, thường xuyên, chân thành, sẽ là đánh mất những giấc mơ quý nhất. Bởi lý do đơn sơ ấy, với tư cách Kitô hữu, chúng ta không từ bỏ việc bố thí. Đó là một cử chỉ có thể thi hành dưới nhiều hình thức và ta có thể tìm cách thực hiện sao cho hiệu quả nhất, nhưng phải làm. Và luôn tốt hơn là làm điều gì đó hơn là không làm gì. Dù thế nào, nó cũng sẽ chạm đến trái tim ta. Dĩ nhiên, đó không phải là giải pháp cho nạn nghèo toàn cầu, điều cần được tìm bằng trí tuệ, kiên trì và dấn thân xã hội. Nhưng ta cần thực hành bố thí để chạm đến “thịt” đau khổ của người nghèo.
120. Tình yêu Kitô giáo vượt mọi rào cản, kéo gần kẻ xa lạ, quy tụ người dưng, hóa thân thù thành thân hữu, bắc qua những hố sâu vốn không thể vượt theo tiêu chuẩn nhân loại, len đến các góc khuất nhất của xã hội. Tự bản chất, tình yêu Kitô giáo mang tính ngôn sứ, làm những điều kỳ diệu, không biết đến giới hạn: tình yêu dành cho điều tưởng chừng bất khả. Tình yêu trước hết là một cách quan niệm đời sống, một cách sống đời sống. Như thế, một Giáo Hội không đặt giới hạn cho tình yêu, không biết có “kẻ thù” phải chiến đấu, nhưng chỉ có nam phụ lão ấu để yêu mến, đó là Giáo Hội mà thế giới hôm nay đang cần.
121. Dù bằng công việc anh chị em đang thực hiện, hay bằng dấn thân thay đổi các cơ cấu xã hội bất công, hoặc bằng những cử chỉ đơn sơ của tương trợ, rất gần gũi và thấm đẫm tính cá vị, thì người nghèo ấy vẫn có thể cảm nghiệm rằng lời Chúa Giêsu là dành cho họ: «Ta đã yêu thương con» (Kh 3,9).
Ban hành tại Rôma, gần mộ thánh Phêrô, ngày 4 tháng Mười, lễ nhớ thánh Phanxicô Assisi, năm 2025, năm thứ nhất Triều Đại Giáo Hoàng của tôi.
Lêô XIV, Giáo Hoàng
Chú thích
[1] Francisco, Carta enc. Dilexit nos (24 octubre 2024), 170: AAS 116 (2024), 1422.
[2] Ibíd., 171: AAS 116 (2024), 1422-1423.
[3] Id., Exhort. ap. Gaudete et exsultate (19 marzo 2018), 96: AAS 110 (2018), 1137.
[4] Francisco, Encuentro con los representantes de los medios de comunicación (16 marzo 2013): AAS 105 (2013), 381.
[5] J. Bergoglio – A. Skorka, Sobre el cielo y la tierra, Buenos Aires 2013, 214.
[6] S. Pablo VI, Homilía en la Santa Misa concelebrada durante la última sesión pública del Concilio Ecuménico Vaticano II (7 diciembre 1965): AAS 58 (1966), 55-56.
[7] Cf. Francisco, Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 187: AAS 105 (2013), 1098.
[8] Ibíd., 212: AAS 105 (2013), 1108.
[9] Id., Carta. enc. Fratelli tutti (3 octubre 2020), 23: AAS 112 (2020), 977.
[10] Ibíd., 21: AAS 112 (2020), 976.
[11] Consejo de las Comunidades Europeas, Decisión (85/8/CEE) relativa a una acción comunitaria específica de lucha contra la pobreza (19 diciembre 1984), art. 1, par. 2: Diario Oficial de las Comunidades Europeas, N. L 2/24.
[12] Cf. S. Juan Pablo II, Catequesis (27 octubre 1999): L’Osservatore Romano, ed. semanal en lengua española, 29 octubre 1999, 3.
[13] Francisco, Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 197: AAS 105 (2013), 1102.
[14] Cf. id., Mensaje para la V Jornada Mundial de los Pobres (13 junio 2021), 3: AAS 113 (2021), 691: «Jesús no sólo está de parte de los pobres, sino que comparte con ellos la misma suerte. Esta es una importante lección también para sus discípulos de todos los tiempos».
[15] Id., Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 186: AAS 105 (2013), 1098.
[16] Id., Exhort. ap. Gaudete et exsultate (19 marzo 2018), 95: AAS 110 (2018), 1137.
[17] Ibíd., 97: AAS 110 (2018), 1137.
[18] Id., Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 194: AAS 105 (2013), 1101.
[19] Francisco, Encuentro con los representantes de los medios de comunicación (16 marzo 2013): AAS 105 (2013), 381.
[20] Conc. Ecum. Vaticano II, Const. dogm. Lumen gentium, 8.
[21] Francisco, Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 48: AAS 105 (2013), 1040.
[22] En este capítulo propondremos algunos de estos ejemplos de santidad, que no pretenden ser exhaustivos, sino indicativos del cuidado de los pobres que siempre ha caracterizado la presencia de la Iglesia en el mundo. Una reflexión detallada sobre la historia de esta atención eclesial a los más pobres se encuentra en el libro de V. Paglia, Storia della povertà, Milán 2014.
[23] Cf. S. Ambrosio, De officiis ministrorum I, cap. 41, 205-206: CCSL 15, Turnhout 2000, 76-77; II, cap. 28, 140-143: CCSL 15, 148-149.
[24] Ibíd. II, cap. 28, 140: CCSL 15, 148.
[25] Ibíd.
[26] Ibíd. II, cap. 28, 142: CCSL 15, 148.
[27] S. Ignacio de Antioquía, Epistula ad Smyrnaeos, 6, 2: SCh 10bis, París 2007, 136-138.
[28] S. Policarpo, Epistula ad Philippenses, 6, 1: SCh 10bis, 186.
[29] S. Justino, Apologia prima, 67, 6-7: SCh 507, París 2006, 310.
[30] S. Juan Crisóstomo, Homiliae in Matthaeum, 50, 3: PG 58, París 1862, 508.
[31] Ibíd., 50, 4: PG 58, 509.
[32] Id., Homilia in Epistula ad Hebraeos, 11, 3: PG 63, París 1862, 94.
[33] Id., Homilia II De Lazaro, 6: PG 48, París 1862, 992.
[34] S. Ambrosio, De Nabuthae, 12, 53: CSEL 32/2, Praga-Viena-Leipzig 1897, 498.
[35] S. Agustín, Enarrationes in Psalmos, 125, 12: CSEL 95/3, Viena 2001, 181.
[36] Id., Sermo LXXXVI, 5: CCSL 41Ab, Turnhout 2019, 411-412.
[37] Pseudoagustín, Sermo CCCLXXXVIII, 2: PL 39, París 1862, 1700.
[38] S. Cipriano, De mortalitate, 16: CCSL 3A, Turnhout 1976, 25.
[39] Francisco, Mensaje para la XXX Jornada Mundial del Enfermo (10 diciembre 2021), 3: AAS 114 (2022), 51.
[40] S. Camilo de Lelis, Reglas de la Compañía de los Ministros de los Enfermos, 27: M. Vanti (ed.), Scritti di San Camillo de Lellis, Milán 1965, 67.
[41] Sta. Luisa de Marillac, Carta a las Hermanas Claude Carré y Marie Gaudoin (28 noviembre 1657): E. Charpy (ed.), Sainte Louise de Marillac. Écrits, París 1983, 576.
[42] S. Basilio Magno, Regulae fusius tractatae, 37, 1: PG 31, París 1857, 1009 C-D.
[43] Regula Benedicti, 53, 15: SCh 182, París 1972, 614.
[44] S. Juan Casiano, Collationes XIV, 10: CSEL 13, Viena 2004, 410.
[45] Benedicto XVI, Catequesis (21 octubre 2009): L’Osservatore Romano, ed. semanal en lengua española, 23 octubre 2009, 32.
[46] Cf. Inocencio III, Bula Operante divinae dispositionis – Regla Primitiva de los Trinitarios (17 diciembre 1198), 2: J. L. Aurrecoechea – A. Moldón (eds.), Fuentes históricas de la Orden Trinitaria (s. XII-XV), Córdoba 2003, 6-7: «Todos los bienes, de dondequiera que lícitamente provengan, los dividan en tres partes iguales; y en la medida en que dos partes sean suficientes, se lleven a cabo con ellas obras de misericordia, junto con un moderado sustento de sí mismos y de los que por necesidad están a su servicio. En cambio, la tercera parte se reserve para la redención de los cautivos a causa de su fe en Cristo».
[47] Cf. Constituciones de la Orden de los Mercedarios, n. 14: Orden de la Bienaventurada Virgen María de la Merced, Regla y Constituciones, Roma 2014, 53: «Para cumplir esta misión, impulsados por la caridad, nos consagramos a Dios con un voto particular, llamado de Redención, en virtud del cual prometemos dar la vida como Cristo la dio por nosotros, si fuere necesario, para salvar a los cristianos que se encuentran en extremo peligro de perder su fe, en las nuevas formas de cautividad».
[48] Cf. S. Juan Bautista de la Concepción, La regla de la Orden de la Santísima Trinidad, XX, 1: BAC Maior 60, Madrid 1999, 90: «Y en esto son los pobres y cautivos semejantes a Cristo, en quien el mundo arroja sus penas […]. A éstos esta santa Religión de la Santísima Trinidad llama y convida que vengan a beber del agua del Salvador, que es decir que, por haberse Cristo puesto en la cruz a ser salud y salvador de los hombres, ella ha cogido de aquella salud y la quiere dar y repartir a los pobres y salvar y librar a los cautivos».
[49] Cf. id., El recogimiento interior, XL, 4: BAC Maior 48, Madrid 1995, 689: «El libre albedrío al hombre le hace señor y libre entre todas las criaturas, pero ¡ay, buen Dios!, cuántos más son los que por ese camino son esclavos y cautivos del demonio, presos y aherrojados de sus pasiones y apetitos desordenados».
[50] Francisco, Mensaje para la XLVIII Jornada Mundial de la Paz (8 diciembre 2014), 3: AAS 107 (2015), 69.
[51] Id., Encuentro con los agentes de la policía penitenciaria, los detenidos y los voluntarios de la cárcel de Montorio (Verona, 18 de mayo de 2024): AAS 116 (2024), 766.
[52] Honorio III, Bula Solet annuere – Regla bulada (29 noviembre 1223), cap. VI: SCh 285, París 1981, 192.
[53] Cf. Gregorio IX, Bula Sicut manifestum est (17 septiembre 1228), 7: SCh 325, París 1985, 200: «Sicut igitur supplicastis, altissimae paupertatis propositum vestrum favore apostolico roboramus, auctoritate vobis praesentium indulgentes, ut recipere possessiones a nullo compelli possitis».
[54] Cf. S. C. Tugwell (ed.), Early Dominicans. Selected Writings, Mahwah 1982, 16-19.
[55] Tomás de Celano, Vita Secunda – pars prima, cap. IV, 8: AnalFranc 10, Florencia 1941, 135.
[56] Francisco, Discurso después de la visita a la tumba de don Lorenzo Milani (Barbiana, 20 de junio de 2017), 2: AAS 109 (2017), 745.
[57] S. Juan Pablo II, Discurso a los participantes en el Capítulo General de los Clérigos Regulares Pobres de la Madre de Dios de las Escuelas Pías – Escolapios (5 julio 1997), 2: L’Osservatore Romano, ed. semanal en lengua española, 11 julio 1997, 2.
[58] Ibíd.
[59] Id., Homilía durante la Santa Misa de canonización (18 abril 1999): AAS 91 (1999), 930.
[60] Cf. id., Carta Iuvenum Patris (31 enero 1988), 9: AAS 80 (1988), 976.
[61] Cf. Francisco, Discurso a los participantes en el Capítulo General del Instituto de la Caridad – Rosminianos (1 octubre 2018): L’Osservatore Romano, 1-2 octubre 2018, 7.
[62] Id., Homilía durante la Santa Misa de canonización (9 octubre 2022): AAS 114 (2022), 1338.
[63] S. Juan Pablo II, Mensaje a la Congregación de Misioneras del Sagrado Corazón (31 mayo 2000), 3: L’Osservatore Romano, ed. semanal en lengua española, 28 julio 2000, 5.
[64] Cf. Pío XII, Breve ap. Superiore iam aetate (8 septiembre 1950): AAS 43 (1951), 455-456.
[65] Francisco, Mensaje para la CV Jornada Mundial del Migrante y del Refugiado (27 mayo 2019): AAS 111 (2019), 911.
[66] Id., Mensaje para la C Jornada Mundial del Migrante y del Refugiado (5 agosto 2013): AAS 105 (2013), 930.
[67] Sta. Teresa de Calcuta, Discurso al recibir el Premio Nobel de la Paz (Oslo, 10 de diciembre de 1979): Id., Aimer jusqu’à en avoir mal, Lyon 2017, 19-20.
[68] S. Juan Pablo II, Discurso a los peregrinos venidos a Roma para la beatificación de la Madre Teresa de Calcuta (20 octubre 2003), 3: L’Osservatore Romano, ed. semanal en lengua española, 31 octubre 2003, 7.
[69] Francisco, Homilía durante la Santa Misa de canonización (13 octubre 2019): AAS 111 (2019), 1712.
[70] S. Juan Pablo II, Carta ap. Novo millennio ineunte (6 enero 2001), 49: AAS 93 (2001), 302.
[71] Francisco, Exhort. ap. Christus vivit (25 marzo 2019), 231: AAS 111 (2019), 458.
[72] Id., Discurso a los participantes en el Encuentro mundial de los movimientos populares (28 octubre 2014): AAS 106 (2014), 851-852.
[73] Ibíd.: AAS 106 (2014), 859.
[74] Id., Discurso a los participantes en el Encuentro mundial de los movimientos populares (5 noviembre 2016): L’Osservatore Romano, ed. semanal en lengua española, 11 noviembre 2016, 8.
[75] Ibíd.
[76] S. Juan XXIII, Radiomensaje a todos los fieles del mundo un mes antes de la apertura del Concilio Ecuménico Vaticano II (11 septiembre 1962): AAS 54 (1962), 682.
[77] G. Lercaro, Intervención en la XXXV Congregación general del Concilio Ecuménico Vaticano II (6 diciembre 1962), 2: AS I/IV, 327-328.
[78] Ibíd., 4: AS I/IV, 329.
[79] Istituto per le Scienze Religiose (ed.), Per la forza dello Spirito. Discorsi conciliari del Card. Giacomo Lercaro, Bolonia 1984, 115.
[80] S. Pablo VI, Alocución en la solemne apertura de la segunda sesión del Concilio Ecuménico Vaticano II (29 septiembre 1963): AAS 55 (1963), 857.
[81] Id., Catequesis (11 noviembre 1964): Insegnamenti di Paolo VI, II (1964), 984.
[82] Conc. Ecum. Vat. II, Const. past. Gaudium et spes, 69. 71.
[83] S. Pablo VI, Carta enc. Populorum progressio (26 marzo 1967), 23: AAS 59 (1967), 269.
[84] Cf. ibíd., 4: AAS 59 (1967), 259.
[85] S. Juan Pablo II, Carta enc. Sollicitudo rei socialis (30 diciembre 1987), 42: AAS 80 (1988), 572.
[86] Ibíd.: AAS 80 (1988), 573.
[87] Id., Carta enc. Laborem exercens (14 septiembre 1981), 3: AAS 73 (1981), 584.
[88] Benedicto XVI, Carta enc. Caritas in veritate (29 junio 2009), 7: AAS 101 (2009), 645.
[89] Ibíd., 27: AAS 101 (2009), 661.
[90] II Conferencia General del Episcopado Latinoamericano, Documento de Medellín (24 octubre 1968), 14, n. 7: CELAM, Medellín. Conclusiones, Lima 2005, 131-132.
[91] Francisco, Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 202: AAS 105 (2013), 1105.
[92] Ibíd., 205: AAS 105 (2013), 1106.
[93] Ibíd., 190: AAS 105 (2013), 1099.
[94] Ibíd., 56: AAS 105 (2013), 1043.
[95] Id., Carta enc. Dilexit nos (24 octubre 2024), 183: AAS 116 (2024), 1427.
[96] S. Juan Pablo II, Carta enc. Centesimus annus (1 mayo 1991), 41: AAS 83 (1991), 844-845.
[97] Francisco, Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 202: AAS 105 (2013), 1105.
[98] Ibíd.
[99] Id., Carta enc. Fratelli tutti (3 octubre 2020), 22: AAS 112 (2020), 976.
[100] Id., Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 209: AAS 105 (2013), 1107.
[101] Id., Carta enc. Laudato si’ (24 mayo 2015), 50: AAS 107 (2015), 866.
[102] Id., Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 210: AAS 105 (2013), 1107.
[103] Id., Carta enc. Laudato si’ (24 mayo 2015), 43: AAS 107 (2015), 863.
[104] Ibíd., 48: AAS 107 (2015), 865.
[105] Id., Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 180: AAS 105 (2013), 1095.
[106] Congregación para la Doctrina de la Fe, Instrucción sobre algunos aspectos de la “Teología de la liberación” (6 agosto 1984), XI, 18: AAS 76 (1984), 907-908.
[107] V Conferencia General del Episcopado Latinoamericano y del Caribe, Documento de Aparecida (29 junio 2007), n. 392, Bogotá 2007, pp. 179-180. Cf. Benedicto XVI, Discurso en la sesión inaugural de los trabajos de la V Conferencia General del Episcopado Latinoamericano y del Caribe (13 mayo 2007), 3: AAS 99 (2007), 450.
[108] Cf. V Conferencia General del Episcopado Latinoamericano y del Caribe, Documento de Aparecida (29 junio 2007), nn. 43-87, pp. 31-47.
[109] Id., Mensaje final (29 mayo 2007), n. 4, Bogotá 2007, p. 275.
[110] Id., Documento de Aparecida (29 junio 2007), n. 398, p. 182.
[111] Francisco, Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 199: AAS 105 (2013), 1103-1104.
[112] Ibíd., 198: AAS 105 (2013), 1103.
[113] Ibíd.
[114] V Conferencia General del Episcopado Latinoamericano y del Caribe, Documento de Aparecida (29 junio 2007), n. 397, p. 182.
[115] Francisco, Carta enc. Fratelli tutti (3 octubre 2020), 64: AAS 112 (2020), 992.
[116] Id., Exhort. ap. Gaudete et exsultate (19 marzo 2018), 98: AAS 110 (2018), 1137.
[117] Id., Carta enc. Fratelli tutti (3 octubre 2020), 65-66: AAS 112 (2020), 992.
[118] S. Gregorio Magno, Homilía 40, 10: SCh 522, París 2008, 552-554.
[119] Ibíd., 6: SCh 522, 546.
[120] Ibíd., 3: SCh 522, 536.
[121] S. Juan Pablo II, Carta enc. Centesimus annus (1 mayo 1991), 57: AAS 83 (1991) 862-863.
[122] Francisco, Vigilia de Pentecostés con los movimientos eclesiales (18 mayo 2013): L’Osservatore Romano, ed. semanal en lengua española, 24 mayo 2013, 6.
[123] Id., Exhort. ap. Evangelii gaudium (24 noviembre 2013), 186: AAS 105 (2013), 1098.
[124] Ibíd., 188: AAS 105 (2013), 1099.
[125] Cf. ibíd., 182-183: AAS 105 (2013), 1096-1097.
[126] Ibíd., 207: AAS 105 (2013), 1107.
[127] Ibíd., 200: AAS 105 (2013), 1104.
[128] Id., Discurso en ocasión del encuentro con el mundo del trabajo en el establecimiento siderúrgico ILVA en Génova (27 mayo 2017): AAS 109 (2017), 613.
[129] Pseudocrisóstomo, Homilia de jejunio et eleemosyna: PG 48, 1060.
[130] S. Gregorio Nacianceno, Oratio XIV, 40: PG 35, París 1886, 910.
TÔNG HUẤN LÀ GÌ?
Tông huấn (tiếng Latinh: Exhortatio Apostolica; tiếng Tây Ban Nha: Exhotación Apostólica) là một văn kiện huấn quyền do Đức Giáo hoàng ban hành nhằm khích lệ, định hướng và cổ võ đời sống đức tin, mục vụ, tu đức hay xã hội của toàn thể Giáo Hội.
Mục đích: nhấn mạnh những ưu tiên mục vụ, kêu gọi canh tân đời sống Kitô hữu, đề nghị các đường hướng thực hành.
Tính quyền bính: thuộc huấn quyền thông thường của Đức Giáo hoàng; có giá trị hướng dẫn rất cao, nhưng thường không mang tính định tín (không nhằm tuyên bố tín điều mới).
Phân loại:
+ Tông huấn hậu Thượng Hội đồng (post-synodal): đúc kết và định hướng sau một Thượng Hội đồng Giám mục.
+ Tông huấn riêng: không gắn với Thượng Hội đồng, nhằm cổ võ một chủ đề mục vụ cụ thể.
Phân biệt:
Tông huấn “nhẹ” hơn Thông điệp (encyclical) về mức độ giáo huấn có hệ thống, và “nhẹ” hơn Tông hiến (apostolic constitution) vốn dùng cho các quy định nền tảng (như lập Bộ, ban luật). Khác với Tự sắc (motu proprio) là văn kiện pháp lý–quy phạm.
Ví dụ:
Tông Huấn Pastores Dabo Vobis (1992) – Về việc đào tạo linh mục,
Tông Huấn Verbum Domini (2010) – Về Lời Chúa trong đời sống và sứ vụ Giáo Hội.,
Tông Huấn Evangelii Gaudium (Niềm Vui Tin Mừng, 2013),
Tông Huấn Amoris Laetitia (Niềm Vui Yêu Thương, 2016),
Tông Huấn Christus Vivit (Đức Kitô Sống, 2019),
Tông Huấn Dilexi te (Ta đã yêu thương con, 2025).
Chuyển ngữ: Lm. Antôn Trần Xuân Sang, SVD.
Author

Chuyên viết tin tức và bài phân tích về Giáo hội Công giáo và các vấn đề tôn giáo – xã hội quốc tế.
Sign up for Kênh Công Giáo - Ephata Catholic Media newsletters.
Stay up to date with curated collection of our top stories.