
“Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì không có chỗ cho họ trong quán trọ.” (Lc 2,7).
Thuật ngữ “con đầu lòng” có ý nghĩa rất quan trọng trong lịch sử Do Thái, bắt nguồn từ giao ước Thiên Chúa thiết lập với Môsê sau khi dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập. Lễ Vượt Qua nhắc lại đêm Đức Chúa giáng phạt các con đầu lòng của người Ai Cập, nhưng “đi ngang qua” những nhà người Do Thái đã bôi “máu chiên” trên cửa (Xh 12,7). Vì đặc ân này, “Đức Chúa phán với Môsê: ‘Hãy thánh hiến cho Ta mọi con đầu lòng: mọi con đầu lòng từ lòng mẹ thuộc về dân Israel, hoặc người hoặc thú vật, đều thuộc về Ta.’” (Xh 13,1–2). Như vậy, ý nghĩa Do Thái của “con đầu lòng” không hàm ý có thêm những người con khác.
Thánh Phaolô viết: “Vì những ai Người đã biết trước, thì Người cũng đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc.” (Rm 8,29). Phaolô, vốn là người Do Thái nhiệt thành trước khi trở lại, hiểu rõ tầm quan trọng của từ “trưởng tử” và dùng nó để chỉ Đức Giêsu là Anh Cả của chúng ta, nhờ công nghiệp của Người mà ta được nhận làm nghĩa tử Thiên Chúa.
“Bấy giờ mẹ và anh em Đức Giêsu đến. Họ đứng ngoài, cho gọi Người ra… Người đáp lại: ‘Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?’ Rồi Người đưa mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: ‘Đây là mẹ Ta, đây là anh em Ta! Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, kẻ ấy là anh em, chị em, và mẹ Ta.’” (Mc 3,31–35).
Người Do Thái gọi cả anh chị em họ hàng là “anh em, chị em”. Thực tế, họ không có từ riêng để chỉ “anh em họ” như chúng ta. Những “anh em” của Đức Giêsu ở đây chính là họ hàng – Giacôbê và Giuđa, con ông Alphê, anh của thánh Giuse (x. Mt 13,55; 27,56). Ngay cả anh em Tin Lành cũng phải thừa nhận rằng không có bằng chứng lịch sử nào cho thấy Đức Maria có thêm con khác. Nếu quả thật Mẹ có những người con khác, thì tại sao Chúa Giêsu lại trao Mẹ cho Gioan dưới chân Thập giá, thay vì cho một trong những “anh em” ấy?
“Khi tỉnh giấc, ông Giuse đã làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. Nhưng ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu.” (Mt 1,24–25).
Từ Hy Lạp dịch là “cho đến khi” không hàm ý điều gì xảy ra sau đó. Một ví dụ khác về cách dùng từ này: “Người phải nắm vương quyền cho đến khi đặt mọi thù địch dưới chân.” (1 Cr 15,25). Rõ ràng Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm Vua sau khi đã khuất phục kẻ thù, nên ta không thể suy diễn gì thêm về mối quan hệ giữa Maria và Giuse từ đoạn Mt 1,24–25.
“Bà là luồng sinh khí của quyền năng Thiên Chúa, là làn khí tinh tuyền toát ra từ vinh quang Đấng Toàn Năng; vì thế, không gì vấy bẩn lọt vào được. Bà là phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là gương trong suốt hành động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân lành của Người.” (Kn 7,25).
“Giáo Hội luôn tuyên xưng niềm tin vào sự đồng trinh trọn đời của Đức Maria. Những bản văn cổ xưa nhất, khi nói về việc thụ thai Đức Giêsu, đều chỉ gọi Maria là ‘Trinh nữ’, hàm ý rằng các ngài coi đặc ân này là một thực tại vĩnh viễn trong toàn bộ cuộc đời Mẹ. Các Kitô hữu tiên khởi đã diễn tả xác tín đức tin ấy bằng thuật ngữ Hy Lạp aeiparthenos – nghĩa là ‘trọn đời đồng trinh’ – để diễn tả Đức Maria một cách độc đáo và súc tích, và để bày tỏ trong một từ duy nhất niềm tin của Giáo Hội vào sự đồng trinh vĩnh viễn của Mẹ.” (Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Buổi Tiếp kiến chung, 28.8.1996).
(Xh 12,7; Xh 13,1–2; Ds 3,11–13; Kn 7,25; Ed 44,2; Rm 8,29; Mt 1,24–25 cùng 1 Cr 15,25; Mc 3,31–35 cùng Mt 13,55; 27,56; Lc 2,7)
Nguồn: Catholicism Frequently Asked Questions - St. Peter & St. Paul Catechism Ministry
Author

Chuyên viết các bài viết chia sẻ đời sống, giáo lý và thắc mắc Công Giáo
Sign up for Kênh Công Giáo - Ephata Catholic Media newsletters.
Stay up to date with curated collection of our top stories.